NGÔ THÚY NGA
1.
Làng yên bình gối đầu lên chân một mỏm núi mà thở nhẹ nhàng. Làng cười nhẹ như gió bên nhánh sông thầm thì lời bìm bịp gọi nhau. Làng tôi đấy! Có núi, có sông, có cánh đồng mà đàn cò dang cánh, rộng thênh thang. Có tuổi thơ của chị em tôi và những chị em khác nữa.
Minh họa: Nhím
Người ta nói miền Trung như cái đòn gánh, quảy trên lưng hai đầu của đất nước. Đòn gánh cong oằn vì nặng, vì nắng mưa. Cái nắng như cào xé, thiêu đốt làng tôi bằng những trận gió Lào nóng như ngậm lửa. Cái rét - người ta không gọi là lạnh, vì nó không đủ sức diễn - như cứa vào thịt da, nhức nhối cả mùa đông.
2.
Ngôi nhà của mẹ con cụ Nhờ sát bên sông. Chẳng ai biết ông Nhờ ở đâu. Cụ Nhờ một mình lủi thủi nuôi con. Giờ anh Cu đã lớn, mà còn học rất giỏi nữa. Cụ Nhờ tự hào về anh Cu lắm. Thực ra anh có cái tên rất đẹp: Xuân Hào. Nhưng mọi người trong làng đều gọi là anh Cu. Anh tốt bụng và nhiệt tình. Ai nhờ lợp cái nhà, hay rào cái vườn rau anh Cu đều hăng hái làm giúp. Cụ Nhờ thấy thế thì vui lắm. Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống. Cả làng ai cũng thương hai mẹ con cụ. Lâu lâu lại có người kêu: “Cụ Nhờ ơi cho tui mượn anh Cu một lúc, cụ Nhờ ơi tui biếu cụ bó rau, con cá…”. Chị em tôi cũng hay chạy đến chơi nhà cụ. Cụ hay cất dành cho chúng tôi củ khoai nướng, cái bắp luộc và những củ lạc đầu mùa béo ngậy.
3.
Cụ Nhờ quý chị tôi lắm. Cụ luôn gọi chị là con. Anh Cu cũng quý chị. Chị hiền lành, ít nói, suốt ngày chỉ thấy chị cười hiền, chẳng khi nào chị biết to tiếng với ai. Mà chị đảm đang nữa. Chị nấu ăn ngon. Khâu vá, thêu thùa gì chị cũng biết. Chị mang nét đẹp của cả người phụ nữ truyền thống và hiện đại. Chị lãng mạn. Nhưng chị cũng trong suốt như hạt mưa, dễ vỡ, dễ tổn thương. Một cảnh hoàng hôn chiều cũng làm chị đứng ngây người. Một cánh hoa rừng cũng làm chị thảng thốt. Và… một cái gì đó bất chợt cũng có thể làm nước mắt chị rơi. Trên đời này, tôi chưa thấy ai mau nước mắt như chị. Chị thánh thiện như một thiên sứ mang bình yên. Tôi yêu chị nhưng cũng lo cho chị. Chị quá yếu đuối. Chị cần được che chở. Chị như hạt mưa, chạm tay vào là vỡ tan. Và chị quá kín đáo. Dường như chị chỉ biết giữ tất cả trong lòng. Chẳng khi nào chị tâm sự với ai. Chị cũng chẳng có một người bạn nào ngoài tôi với mẹ con cụ Nhờ.
4.
Anh Cu dạy chữ cho chị. Chị dạy lại cho tôi. Anh Cu cũng cho chị em tôi nhiều sách vở. Tối nay chị dạy tôi, nhưng tôi cảm nhận được chị không tập trung. Chị cứ mơ màng, mắt nhìn ra cửa sổ. Tôi hỏi mà chị cũng chẳng biết. Tôi lắc tay mạnh. Chị giật mình. Tự nhiên trong tôi có cảm giác lo sợ sẽ có điều gì xẩy ra. Có lẽ, tôi sắp mất chị. Chị đang yêu đấy. Rồi chị sẽ đi lấy chồng. Tôi thành “mồ côi”. Mồ côi cha mẹ, và sắp mồ côi luôn cả chị. Chiều nay chị với anh Cu ra hái bèo ngoài bờ sông. Và tôi biết anh Cu lại hái hoàng hôn cho chị. Lúc về nhà, tôi đọc được niềm hạnh phúc trong mắt chị. Đôi mắt chị cười, long lanh, và thú thật là tôi say luôn ánh mắt chị. Nếu chị không phải là chị tôi, nhất định tôi sẽ yêu chị. Sẽ tranh chị với anh Cu cho tới cùng. Nhưng… nhưng tôi vẫn yêu chị. Thực ra tôi cũng muốn anh Cu yêu chị. Nhưng mà… tôi sợ. Tôi sợ mất chị. Tôi sợ chị sẽ không yêu tôi nhiều nữa. Nhưng mà… nhưng mà chị đã hai mươi ba. Chị đã là thiếu nữ. Và chị sẽ đi lấy chồng.
5.
Dạo này mưa nhiều. Ngày nào trời cũng mưa, có khi rả rích cả ngày. Chiều nay, cơn giông lại ập đến. Mưa như roi quất vào người. Chớp nhoáng đuổi nhau ngùng ngoằng. Cả sấm. Sấm ầm ầm. Mưa cứ như trút nước. Gió lớn. Gió rít lên từng cơn như đang đánh nhau với mưa. Hôm nay anh Cu lên huyện, cụ Nhờ lại gọi hai chị em tôi đến ăn cơm cùng. Trưa. Đang ăn cơm, bỗng dưng một con chim bồ câu từ trên chuồng rơi xuống sân, đập đập cánh vài cái rồi nằm đơ. Chị em tôi chạy ra thì con chim đã chết. Tôi đưa vào cho cụ Nhờ xem, cụ không nói gì, nhưng hình như sắc mặt cụ biến đổi. Tôi hỏi cụ làm sao, cụ lắc đầu không nói.
Mưa vẫn chưa ngớt. Ba bà cháu sốt cả ruột. Không biết sao giờ này anh Cu vẫn chưa về? Lúc sáng anh Cu bảo phải lên huyện xin giấy tờ gì đấy. Ba bà cháu cứ đi đi lại lại, điện thì không có. Được cái đèn dầu gió cũng thổi tắt ngúm. Ban ngày mà tối thui. Không ai nói với ai câu gì. Chị nắm tay cụ Nhờ thật chặt. Tôi biết chị đang bảo cụ cứ yên tâm, tạnh mưa anh Cu sẽ về. Ba bà cháu tôi, mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng, làm căn nhà bé nhỏ của cụ thêm u uẩn. Bỗng “đùng” một tiếng to kinh khủng, chúng tôi giật nẩy mình. Sét! Chắc nó đánh ở đâu gần lắm. Ở đây, cứ mỗi lần trời mưa giông lại hay có sấm sét. Mấy năm trước, sét còn đánh chết cả đàn bò bảy, tám con…
Một lúc sau mưa tạnh. Tôi đang hí hoáy chống cái rèm cho nhà cửa sáng lên chút thì bà Toán hàng xóm hớt ha hớt hảy chạy đến, chưa vào tới nhà đã gọi toáng lên:
- Ơi cụ Nhờ! Ơi cụ…
- Cụ đang ở trong nhà. Có việc gì mà bá vội vàng thế ạ? - Tôi đáp.
- Cụ… Bảo cụ… Anh Cu… Thằng Cu…
Nghe giọng hốt hoảng của bà Toán, mà lại có nhắc đến anh Cu. Cụ Nhờ và chị tôi trong nhà chạy ra.
- Bá ơi. Anh Cu… Anh Cu làm sao hả bá? - Chị lo lắng.
- Thằng Cu… Thằng Cu nhà tôi nó làm sao… bà Toán? - Cụ Nhờ hốt hoảng.
- Thằng Cu…Thằng Cu chết rồi…
Có gì đó vừa bục vỡ từ những lời khó nhọc của bà Toán.
- Bá nói gì thế bá? Bá đừng nói bậy. Bá làm bà xỉu bây giờ - Tôi chạy lại lay mạnh tay bà Toán.
Chị và cụ Nhờ đứng như trời trồng. Tay tôi vẫn bóp mạnh tay bà Toán.
- Sét đánh chết thằng Cu rồi. Nó với chiếc xe đạp cháy sém. Nó… Nó đang nằm trước cửa nhà tôi - Bà Toán nói những lời khó khăn còn lại.
Hai chị em tôi dìu cụ Nhờ đi theo bà Toán. Ra tới nơi, anh Cu đang nằm bên chiếc xe đạp. Mặt bị sém một bên. Áo quần, chỗ cháy chỗ không. Chị tôi lại rút chiếc khăn tay thò ra một múi từ túi áo anh Cu. Đúng là anh Cu thật rồi. Đó là chiếc khăn chị thức mấy đêm hết thêu rồi lại là cho phẳng phiu để tặng anh.
6.
Đám tang anh Cu, người làng đi rất đông. Ai cũng xót thương cho anh Cu, vừa hiền lành, đẹp người đẹp nết, lại có tài, vậy mà phải chết trẻ. Người ta xì xào “Đúng là cái số”. Họ cũng xót thương cho cụ Nhờ, có đứa con như vàng, bây giờ… Còn tôi xót thương cho cả chị tôi nữa. Chị như không còn giọt nước mắt và chút sức lực nào. Anh Cu cũng ác, bỏ chị tôi mà đi.
Trời tối rồi, mà chị không chịu về, cứ ngồi bên mộ anh Cu. Tôi nói thế nào chị cũng chẳng nghe. Tôi đùm đùm gói gói mang cơm ra nghĩa địa cho chị, nhưng chị chẳng buồn ăn. Chị cứ ngồi thế như pho tượng. Trời đêm heo hút. Gió thoang thoảng rót vào bãi tha ma những tiếng vi vu, rì rầm nghe lành lạnh. Tôi bất giác rùng mình, cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng và dựng tóc gáy. Chị thì cứ ngồi vô hồn, mặc cho gió vờn tóc rối tung. Trong đêm tối, ánh trăng lờ mờ hắt xuống đôi mắt chị trũng sâu, ráo hoảnh và gương mặt không chút cảm xúc. Tiếng ếch nhái vọng ra liên hồi, khi nhặt khi khoan. Tự nhiên, tôi liên tưởng tới một bộ phim ma nào đó mà mấy đứa bạn lâu lâu vẫn rủ tôi xem, rồi thét lên, rồi òa khóc vì sợ. Chị thì ngưng lặng, mà thời gian thì cứ vô tình cứa vào mọi thứ, ăn mòn. Khi mảnh trăng mỏng thé như lá lúa nghiêng rơi vào đám mây đen, hình như có ai đó vừa thoáng qua. Như vô thức, tôi bíu chặt lấy tay chị, bảo chị về, người ta nói ở ngoài này nhiều ma lắm. Nhưng chị cứ như không hề nghe thấy.
Tôi bất lực. Mảnh trăng vẫn bị đám mây đen kia nuốt chửng. Không gian lờ mờ, tôi cảm giác như mưa phùn đang bắt đầu thấm xuống mặt và vai, lành lạnh. Rồi sực nhớ, tôi vội chạy về nhà dắt con dao con vào người rồi chạy ra với chị. Lúc đó, tôi sẽ chém vào con ma nào dám đụng tới chị tôi. Như một người đàn ông thực thụ (mặc dù chưa đầy mười tám tuổi), tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm bảo vệ chị và bảo vệ mình.
Chị vẫn ngồi vô hồn bên nấm mồ anh Cu. Tôi còn nghe thấy mùi của đất mới chưa khô, và thoang thoảng mùi của mấy vòng hoa đã gần héo úa. Tôi thấy mắt cay xè, từ nhỏ tới giờ, có khi nào thức khuya đến vậy đâu. Mảnh trăng hình lá lúa đã chui ra khỏi đám mây đen khổng lồ, ung dung nghiêng ngả phía trời xa. Tôi dụi dụi mắt, ngáp dài và gối đầu lên chân chị ngủ thiếp đi. Đang mê man thì chị lay mạnh vai tôi gọi:
- Lực! Dậy mau! Nhanh đi em!
- Có chuyện gì thế? - Giọng tôi ngái ngủ.
Khi tỉnh hẳn, tôi thấy có một toán người đang đứng trước mặt. Người cầm xẻng, người cầm rạ, người cầm xà beng. Tôi chưa kịp định thần, bọn họ đã quát vào mặt:
- Hai chị em mày có khôn hồn thì biến khỏi đây mau.
- Các anh định làm gì? - Khi sinh ra, ông trời đã phú cho tôi cái tính lì.
- Không phải việc của mày, đừng có xía vào con, khôn hồn thì dẫn chị mày biến đi và câm mồm lại - Người đàn ông có mặt mũi bặm trợn quay lại mấy người đi cùng, khoát tay - Chuẩn bị đào đi bọn mày!
- Ai cho phép các anh đào mộ anh Cu? Các anh điên rồi à?
Bỗng nhiên cái máu điên nó sục sôi trong tôi. Tôi muốn giết chết cả mấy người kia. Nhưng bọn chúng cười khoái trá, không thèm quan tâm đến những gì tôi vừa nói và gương mặt đã nóng ran vì tức giận của tôi. Bọn họ chuẩn bị đào mộ anh Cu thật. Biết rằng không thể làm gì bọn chúng, tôi dẫn chị đi xa một đoạn và chạy thật nhanh về gõ cửa nhà bà Toán:
- Bá ơi bá! Bá ơi! Mau mở cửa cho con! - Tôi vừa thở, vừa đập cửa ầm ầm và cố gọi thật to.
- Có việc gì thế? Lực hả? - Giọng bà Toán ngái ngủ.
- Nhanh lên bá ơi. Bọn nó đang đào mộ anh Cu. Bá ơi nhanh lên!
Cánh cửa mở toang, và bà Toán tỉnh hẳn.
- Thôi chết! Bá quên mất. Nhanh nào, mình đi. Khoan đã, để bá gọi thêm bác trai.
Dọc đường đi, bà Toán kể rằng người xưa nói những ai bị sét đánh chết thì phải có người canh gác mộ, nếu không sẽ bị người ta đào mộ để chặt tay. Họ nói chỉ cần chặt được tay người ấy thì sẽ làm ăn phát đạt. Chỉ cần đi theo hướng chỉ của bàn tay người chết thì sẽ trộm được nhiều của cải mà không bị phát hiện. Bà Toán nói nhiều nhưng tôi không biết mình nghe có đúng không. Bá nói “mải lu bu với công việc sau đám tang nên bá quên không nhờ người ra canh gác, may mà có hai đứa không thì…”. Chúng tôi ra tới nơi thì họ đã đào gần xong. Nhận ra bá Toán trai, người có máu mặt trong làng nên bọn họ vứt xẻng, cuốc, rạ… bỏ chạy. Bá trai bảo bá gái đưa hai chị em tôi về nghỉ, bá ở lại canh mộ anh Cu. Lúc đó, trời cũng đã tang tảng sáng. Sương lùng bùng trước mặt chúng tôi.
Về gần tới nhà, chúng tôi lại thấy cụ Nhờ hớt hải đằng trước. Cụ bảo cụ nằm mơ thấy anh Cu về báo mộng là người ta đang đào mộ anh ngoài nghĩa địa. Tôi kể lại đầu đuôi cho cụ nghe rồi cùng chị dẫn cụ về nhà. Cụ thở phào, nghe nỗi đau đang vướng mắc trong lòng đâu đó. Ba người chúng tôi đi bên nhau, nhường lời lại cho bình minh đang dần đội núi. Vài tiếng gà gáy sáng vang lên, bỗng dưng nghe buồn và não nề.
7.
Anh Cu mất được ba ngày thì chị tôi phát điên. Chị không còn biết gì nữa. Chiều nào chị cũng đi lang thang dọc con sông. Tiếng cười của chị nghe rợn cả người, có gì đó còn não nề hơn tiếng khóc. Mà có một điều rất lạ, thường ngày chị tôi rất hay khóc và rất dễ khóc. Có khi tôi đã tưởng người chị làm bằng nước, cứ chọc tay vào là nước sẽ chảy. Thế nhưng khi anh Cu chết, chị tôi không hề rơi một giọt nước mắt. Tôi cứ nghĩ rằng chị sẽ phải là người khóc nhiều nhất mới đúng. Tôi không hiểu tại sao, và cũng không cố tìm hiểu làm gì. Đôi mắt chị ráo hoảnh và hình như là cứ đau đáu nhìn về một cái gì đó. Ngày xưa tôi từng say đôi mắt ấy, bây giờ, đôi mắt ấy lại làm tôi lạnh cả người. Miệng chị lúc nào cũng lẩm bẩm như người đang cầu kinh. Tôi không thể nghe rõ chị nói gì, và không biết trong âm thanh thì thầm ấy, có tên anh Cu, và có tên tôi hay không.
Tôi nằm thiếp đi ngoài hiên nhà, nơi mảnh trăng mỏng thé hắt ánh sáng nhàn nhạt xanh. Nhưng bây giờ, trời đang chập choạng tối. Mảnh trăng còn chưa lên. Tôi nhìn ra xa phía con kênh có màu ráng hồng in hằn lần cuối rồi chìm vào giấc ngủ. Cơn mơ đưa tôi đến nơi nào đó hoang vắng, lạ lẫm nhưng lại rất nhiều gương mặt thân quen. Chỉ có điều tôi không thể nhớ tên. Tôi muốn cất tiếng gọi nhưng miệng cứ cứng lại như người câm. Tôi thấy anh Cu đang dắt tay chị đi, trên tay chị cầm mấy bông lục bình tím nhợt nhạt. Tôi cố gọi nhưng không được. Tôi chạy theo thì liền bị mấy người xung quanh túm tay giật lại. Tôi vùng vẫy nhưng càng cố thì họ càng túm chặt hơn. Rồi bỗng dưng tôi khóc thật to, hình như tôi gào thét. Và rồi tôi choàng tỉnh. Tôi không thấy chị đâu. Không ai bên mình cả. Người tôi lạnh toát, mồ hôi hột còn đọng quanh trán và rịn khắp cả người. Tôi vùng dậy chạy đi tìm chị. Mắt trái tôi giật liên hồi. Kệ! Tôi chạy khắp nơi trong cái làng nhỏ bé này nhưng vẫn không thấy chị đâu. Tiếng tu hú từ ngọn đồi bên cạnh vọng ra nghe thật khủng khiếp. Tôi vẫn chạy. Tiếng tu hú vẫn vọng liên hồi…
Ra tới bờ kênh, tôi thấy lòng hoang vắng, cảnh vật hoang vắng. Chỉ có ráng chiều nhuộm con kênh một màu mỡ gà và có chỗ đỏ lên hình tròn như mặt trời vừa rụng xuống đó. Tôi nhìn thấy hai khóm mây như hình hài anh Cu và chị tôi đang nắm tay nhau bước về phía mình. Anh cười, và chị tôi cũng thế. Trong khoảnh khắc ráng chiều biến mất và màn đêm đổ ụp xuống, tôi kịp nhìn thấy hai khóm mây tan vào nhau, vô hình dạng…
N.T.N
(SDB13/06-14)
NGUYỄN ĐẠT Nhớ Đoàn Đại Oanh Có thể chiều tối đã xuống lúc tôi say, ngủ gục ở bàn rượu. Không phải mình tôi, mà chúng tôi; cả thảy bốn người, tính gồm chủ gia trong đó, anh ấy tên Giang.
UÔNG TRIỀU Khi còn bé, đã có lần Điểm Bích được mọi người kể cho nghe câu chuyện về mẹ mình. Mẹ Điểm Bích là nàng Ba, một thôn nữ xinh đẹp, bạc phận.
HẠO NGUYÊN 1. Trong căn phòng chạng vạng và thoảng mùi khói thuốc, hai người đàn ông trầm ngâm.
TRẦN THÙY MAITối thứ bảy cuối tuần, Phương tuyên bố:- Tuần sau anh bắt đầu viết tập hai bộ tiểu thuyết của anh Nhớ đừng huy động vào việc gì hết đấy nhé...
LÊ MINH KHUÊ Tường lên chuyến xe rời khu cải tạo phạm nhân sau cùng. Đành phải ngồi cạnh một người đàn bà. Tường nhận ra bà khi ngồi sau bàn nói chuyện với bố.
HOÀNG NHI “Chẳng có chút kinh nghiệm nào trước cõi vô tận không dò được của tâm hồn. Chỉ có sự kinh ngạc trước sự bấp bênh về cái tôi và bản sắc của nó.” (Milan Kundera)
LGT: Trại sáng tác văn học Hương Vân (thôn Lại Bằng, huyện Hương Trà) do Hội Nhà văn TT. Huế đứng ra tổ chức. Trong vòng 10 ngày của tháng 7 trăng vàng trong các mảnh vườn hoa trái, 10 trại viên đã để lại tình cảm sâu đậm với người dân xứ miệt vườn nơi đây bằng những trang văn đầy chất lãng tử. Bên cạnh đó, ở mặt chìm của tác phẩm, những “bụi bặm” từ xã hội công nghiệp cũng được phản ảnh một cách thâm trầm nhưng khẩn thiết...Sông Hương xin giới thiệu một số ít tác phẩm từ Trại viết này.
TRIỀU NGUYÊN Chị Mảnh vác chiếc xe đạp nước đi trước, còn tôi vác sào, chống lẽo đẽo đi sau như cái bóng. Đi một quãng tôi phải dừng lại trở vai, rồi cố bước thật nhanh để bám kịp chị.
NGUYỄN TOÀN Nhà có hai chị em. Chị như chim công, nó chẳng bằng cú. Đấng tạo hóa sau khi tạo tác một sinh vật xinh đẹp như chị chắc phải lấy làm mãn nguyện sung sướng. Rồi trong lúc quá chén ngài đã vô tình tạc nên một sinh vật dị hình nữa, là nó.
PHẠM PHƯƠNG Thằng bé đứng bên sông. Nó thấy màu đỏ ửng phía chân trời, nơi có hàng thùy dương và con đường đất ẩm. Đứa con gái nhà ai, trong làn khói lam chiều rơm đốt giữa mùa, mặc một bộ đồ cỏ úa, đang tha thẩn nhặt cỏ gà.
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH Khi về già người ta thường hoài niệm về tuổi trẻ và thích ngồi đợi những buổi sáng. Bởi vì đêm tối lạnh lẽo và âm u làm sao!
DẠ NGÂN Sau giấc ngủ trưa, hai chiếc gối kê cao trên đầu giường, tôi bắt đầu buổi làm việc tại nhà như vậy. Đó là sự nhân nhượng của toà báo với những biên tập viên cao niên và tôi, cũng như nhiều đồng lứa trong giới, tận hưởng đặc quyền đó bằng trách nhiệm tự giác thường trực.
NHẤT LÂM Tết êm đềm trôi hết tháng Giêng, mà bầu trời thung lũng Mu Lu còn khá lạnh. Chập tối, hơi đá từ dãy núi Ta Chan phả ra, sương buông màn màu sữa đục.
HUY PHƯƠNG Đã nghe thấy tiếng gió rì rào, như từng đợt sóng nhỏ tràn qua mái nhà. Trời trở rét… Chả trách mà tối hôm qua, cánh cửa kính cứ hết sập lại mở, rập rình mấy lần làm anh mất ngủ.
LÊ VĂN… Rồi cũng xong … Anh lơ xe nhảy lên cuối cùng, la lớn:- Tới đi chú Tám ơi!
QUỐC THÀNH - Xin người hoàn lại xiêm y cho ta - một thiếu nữ ngâm mình trong làn nước thơm khẩn khoản. - Mộng ba năm, bây giờ mới có, ta chỉ muốn nàng hứa một lời là được - chàng trai trẻ quay lưng về phía mặt hồ vòi vĩnh.
NGUYỄN THẾ TƯỜNG Sáng nay, ông Tổng biên tập gọi tôi tới bảo đi ngay dự lễ khánh thành một chiếc cầu. Tôi loáng quáng xách máy chạy ra xe, không kịp cả dặn vợ cắt cơm trưa.
L.T.S: Trần Duy Phiên, người thôn Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Điền, Bình Trị Thiên, là một trong những cây bút truyện ngắn chủ chốt của chóm “Việt” - nhóm sáng tác trẻ trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy xuất phát ở Huế trước đây.
DƯƠNG PHƯỚC THUNgôi nhà lợp phi-brô xi-măng rộng chừng ba chục thước vuông, nằm sát cổng ra vào xí nghiệp dệt, biệt lập ngoài khu sản xuất, núp dưới tán lá cây bàng, được xây từ ngày xí nghiệp xảy ra các vụ mất cắp vật tư.
LÊ CÔNG DOANHChuyến đò dừng lại ở bến cuối cùng khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre bên kia sông. Hiếu nhảy lên bờ và bước đi trong cảm giác chòng chành bởi gần trọn một ngày phải ngồi bó chân trong khoang đò chật.