Bói Tết

10:00 20/11/2008
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

Ngày Tết, việc đạp đất hoặc xuất hành đã là một thông tục của người Việt ở nhiều nơi; hai phong tục này vốn đã có liên hệ nhiều ít với ý niệm ngũ hành trong thói bói toán. Đạp đất (còn lại là xông đất) cần nhất phải so tuổi giữa khách và chủ, thí dụ một người có tuổi Mão (cầm tinh con mèo) thì không nên đạp đất cho một người tuổi Tí. Một người mạng Hoả lại không nên xuất hành về phương Bắc; vì bắc thuộc Thuỷ, vì Thuỷ Hoả tương khắc. Vì vậy, trong nhiều trò chơi được ưa chuộng ở Huế có lắm trò chơi bao hàm phép bói toán. Chúng ta có thể nhớ lại:

a. Bói bài: Ngày Tết, nhà nào ở Huế cũng có phổ biến trò chơi bài bạc. Tuy nhiên, bài bạc ở đây không cốt để ăn thua nhau bằng tiền bạc (dù cũng có chuyện tiền bạc chút ít), mà chỉ nhằm có cớ để xen lẫn trong đó trò bói bài. Người ta thường đoán vận mệnh hên xui trong năm bằng cách nhìn qua sự ăn thua trên từng ván bài. Trong dân gian nhất là ở miền quê, thường sử dụng bộ bài tới, trong đó có nhiều con bài chỉ có nét đen tuyền, và một số con bài có đóng dấu đỏ. Vì vậy, trò chơi cờ bạc thường được gọi chung là trò đỏ đen.

b. Bói mai:  Ở Huế, cành mai là không thể thiếu được trong các loại hoa ngày Tết. Người ta thường giải thích rằng mai tượng trưng cho đức tính của người quân tử, vì tuy gầy guộc như một hàn sĩ nhưng lại nở hoa rất dày dặn. Càng gầy guộc, cây mai càng khiến người ta yêu thích, gọi là lão mai. Độ 28 Tết trở đi thì chợ Tết trở thành thời vụ của hoa mai; vì bấy giờ chợ mới đông đảo những người bán kẻ mua quanh chủ đề hoa mai. Những ngày giáp Tết, ở Huế thường có những chiếc xe (xe đạp, xích lô, xe ba gác) chở mai đi bán rong trong các phố lẻ. Cành mai thường được dành một vị trí chủ đạo trong phòng khách của mỗi gia đình, chưng bày từ ngày mồng 1 đến mồng 7 Tết. Đó cũng là thời kỳ diễn ra phong tục bói hoa mai. Hoa mai bình thường có năm cánh; bắt đầu từ mồng 1 Tết trở đi, lại có một “bóng” của cành mai do những cánh hoa rụng đổ trên mặt đất. Người chơi hoa cũng thường giữ gìn những cánh hoa rụng này, không quét dọn nó đi vì sợ mất hên. Có hoa mai 6, 7 cánh trên một cành mai được xem là điềm lành của gia đình; tuy nhiên quý nhất lại là hoa mai có 4 cánh vì hiếm có. Đoá mai 4 cánh được gìn giữ trân trọng một cách đặc biệt trên một cành mai Tết, được chủ nhà lưu ý đặc biệt để theo dõi xem nó rụng chưa. Những người trẻ thì quan tâm về tình yêu, và vì thế họ thường chọn hoa cúc để bói. Họ thường bắt đầu bằng một cánh hoa ở trung tâm, rồi xoay quanh lần lượt đếm từng cánh hoa, vừa nói theo thứ tự: “Nàng yêu tôi”, “Nàng yêu tôi nhiều”, “Nàng yêu tôi say đắm”, “Nàng không yêu tôi chút nào cả”. Cứ tiếp tục đếm như thế, cho đến cánh hoa cuối cùng rơi vào nhóm chữ nào thì duyên số cũng đạt tới vận mệnh đó.
Những người trẻ trong nhà thường tỏ ra lãnh đạm đối với hoa mai và ưa chuộng hoa cúc hơn vì hoa mai không phải là thức đặc dụng để bói về tình yêu. Tuy nhiên từ lúc nào đó tự họ trở thành người chủ của gia đình, thì cành mai lại chiếm giữ đúng vị trí của nó nghĩa là để đoán vận mệnh hên xui của gia đình theo một hướng khác.

c. Bói xăm hường: Hường là một mặt tứ màu đỏ trong bộ tào cáo. Mỗi ván xăm hường được mở đầu bằng cách mỗi người lần lượt vốc bộ xăm hường trong nắm tay rồi thả ra lòng một cái bát. Khi bộ tào cáo đã ổn định thì những mặt tào cáo giống nhau (tất cả có 6 con) sẽ làm thành một tổ hợp; mọi tổ hợp sẽ hợp thành một cấu trúc có ý nghĩa, đem lại cho người đổ một số thẻ; ván xăm hường bắt đầu bằng lần đổ đầu tiên và kết thúc khi có ông Trạng anh xuất hiện (Trạng: một thẻ tre cái tương đương với 32 đơn vị). Đại lược có:
- Thẻ 1 đơn vị tương đương với một mặt tứ gọi là nhất hường.
- Thẻ nhị hường, tương đương với 2 thẻ đơn vị, gồm hai mặt tứ của tào cáo.
- Thẻ tứ tự (hay gọi là cử nhân) có mệnh giá bằng 4 thẻ đơn vị gồm bốn mặt đen giống nhau của tào cáo (không có mặt hường).
- Thẻ tam hường có mệnh giá bằng 8 thẻ đơn vị, ứng với ba mặt hường của tào cáo (gọi là tiến sĩ).
- Thẻ Trạng em có mệnh giá bằng 16 thẻ đơn vị, gọi là suốt, nghĩa là các mặt tào cáo đậu lại theo thứ tự từ nhất đến lục; hoặc là phân song, gồm có một tổ hợp cân đối của bộ tào cáo với mỗi phần gồm ba mặt tào cáo giống nhau. Và còn nhiều tổ hợp khác.
- Thẻ Trạng anh gồm 32 đơn vị, tương ứng với bốn mặt hường.
- Nếu có năm mặt hường thì lấy cả một trạng anh và hai trạng em (gọi là ngũ hường đoạt tam khôi); nếu có ngũ hường + mặt đen của tào cáo gọi là ngũ hường x tuổi; ngũ hường + một mặt nhất (gọi là ngũ hường đại ấn); nếu có năm mặt đen (gọi là ngũ tử).
Lục phú hường (gồm sáu mặt hường thì ăn toàn ván xăm hường hai lần; lục phú đen (sáu mặt đen của tào cáo giống nhau), ăn toàn bộ ván xăm hường một lần.
Xăm hường là trò chơi đổ bát gợi lại ý niệm về thi cử ngày xưa, phù hợp với nguyện vọng và tính ăn thua nhẹ nhàng của phụ nữ giới quý tộc ở Huế, cầu mong cho con thành đạt.
Chất bói toán khiến người đổ xăm hường thích chí nhất là đổ ra suốt hơn là trạng anh; vì bao hàm việc làm ăn hanh thông; hoặc thích lục phú đen hơn là lục phú hường vì tin rằng đỏ quá hoá đen.

d. Bói tuồng: Thời tôi lớn lên, đi học vẫn ngang qua rạp Bà Tuần, là một rạp hát tư nhân thường trực vào thời mà đào kép Huế còn diễn trên sân khấu do các gia đình quý tộc giàu có hoặc những ông hoàng bà chúa dựng lên tại các thành phố và thị trấn nổi tiếng khắp ba cõi Đông Dương. Sau cách mạng tháng Tám, tuồng Huế hết thời, nhưng rạp Bà Tuần vẫn còn sống lây lất, và  những đào kép cũ, tuồng tích cũ ít ra còn đem lại cho xứ Huế đôi nét vàng son của sân khấu thời Nguyễn.
Ở rạp Bà Tuần, người ta thường xào xáo một chương trình tuồng Tết, gồm có những vở tuồng có đoạn nói về tình duyên, để các cô các cậu ở Huế thích đi xem; thí dụ tuồng Phụng Nghi Đình (hay gọi là Lữ Bố hí Điêu Thuyền); Tôn Phu Nhân Quy Thục; Mạnh Lệ Quân thoát hài... Đôi khi người ta diễn cả tuồng Lộ Địch của Ưng Bình Thúc Giạ, là vở tuồng do cụ Thúc Giạ phóng tác phỏng theo vở bi kịch Le Cid của Corneil, trong đó có thay đổi đôi chút, thí dụ như cô tiểu thư Don Chimène sau khi thắng quân giặc bèn vào chùa đi tu, hoặc tác giả phóng bút thêm vào một vai hề tuồng để thích nghi với sân khấu Hát Bội, và hợp với “gu” Huế.

e. Bói đò: Nguyên giữa chợ Gia Lạc (vùng Vĩ Dạ) và chợ Dinh (cùng Gia Hội) trên sông Hương Huế có một con đò ngang, mà người ta cho là rất thiêng, thật ra là bến đò ngang duy nhất để người Huế ở khu Gia Hội có thể xuất hành trong ngày Tết. Tâm lý xuất hành rất quan trọng ở người Huế, ví dụ ra đi khỏi nhà lỡ có người gọi giật lui liền quay về, không dám đi đâu nữa, tức bực suốt ngày hôm ấy. Hơn nữa chợ Gia Lạc lại chỉ đông vào ba ngày Tết, nên càng bao hàm tính xuất hành của chuyến đò đầu năm.
Đến bến đò chợ Dinh nói trên, nếu con đò vẫn đang nằm chờ hoặc vừa mới ghé vào bờ thì đó là vận may, buôn bán hàng thông suốt năm, lỡ đò đã ra giữa vời thì đành đứng đợi, than thân trách phận rằng vận rủi sẽ theo mình quanh năm, không thể thành đạt việc gì khác.
Sự bói ngày Tết là tâm lý rất phổ biến ở người Huế, nhưng chẳng qua là một nét mê tín rất nhẹ nhàng, tuy nhiên người ta vẫn giữ bền là vì nó cũng chẳng dẫn đến hậu quả nào tai hại; nó chỉ làm cho cuộc sống thêm một chút thi vị, giống như người ta thích giữ mãi niềm tin ngây thơ, lúc nhân loại còn thơ ấu.
                 Huế, tháng 11 năm 2005
                            
N.P.N.T

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.