Bohr cần Picasso, khoa học cần nghệ thuật

14:47 14/10/2014

Thật khó có thể tin rằng một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng lại có thể tác động đến lịch sử khoa học. Nhưng cách Niels Bohr từng dự cảm về thế giới không thể nhìn thấy được của các hạt electron đã cho thấy: khoa học cần nghệ thuật.

Picasso – "Guitar", sơn dầu, 53.7 x 64.8 cm, 1916

Vào đầu những năm 1920, Niels Bohr còn đang đánh vật với việc mường tượng cấu trúc của vật chất. Các thế hệ nhà vật lý trước đó đã nghĩ rằng không gian bên trong một nguyên tử trông giống như hệ mặt trời thu nhỏ, với hạt nhân nguyên tử là mặt trời và các electron vo vo xung quanh là các hành tinh trong quỹ đạo. Đó là một mô hình kinh điển.

Nhưng Bohr đã dành nhiều thời gian phân tích bức xạ phát ra từ các electron, và ông nhận thấy rằng khoa học cần một hình ảnh ẩn dụ mới. Hành vi của các electron dường như không tuân theo bất cứ giải thích thông thường nào. Bohr đã nói rằng nếu dùng từ ngữ để giải thích thì sẽ không thể nắm bắt được những dữ liệu về nguyên tử.

Bohr từ lâu đã bị cuốn hút bởi các bức họa theo trường phái lập thể. Ông bày rất nhiều tranh tĩnh vật trừu tượng trong phòng làm việc của mình và luôn thích thú diễn giải cho khách đến thăm cách nhìn của mình về những tác phẩm nghệ thuật đó. Đối với Bohr, sự quyến rũ của trường phái lập thể là ở chỗ nó làm tiêu tan sự chắc chắn của một vật thể. Nghệ thuật này phơi bày những rạn nứt trên tất cả mọi thứ, biến trạng thái bền chắc của vật chất thành một trạng thái mập mờ kỳ dị.

Niềm tin được Bohr nhận thức rõ là: thế giới không thể nhìn thấy được của các hạt electron về bản chất là một thế giới lập thể. Đến năm 1923, de Broglie đã xác định được rằng các electron có thể tồn tại hoặc ở dạng phân tử hoặc ở dạng sóng. Điều mà Bohr xác nhận thêm là, việc các electron tồn tại ở dạng nào phụ thuộc vào cách chúng ta nhìn chúng. Trạng thái tự nhiên của chúng là một hệ quả từ quan sát của chúng ta. Điều này có nghĩa là các hạt electron không hề giống như các hành tinh. Chúng giống như những cây đàn guitar đã được giải cấu trúc (deconstructed) của Picasso, những nét cọ lờ mờ chỉ hiện rõ và có thể hiểu được khi ta chăm chú ngắm nhìn. Những bức họa trông lạ lùng đó thật ra lại phản ánh sự thật.

Thật khó có thể tin rằng một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng lại có thể tác động đến lịch sử khoa học. Trường phái lập thể dường như không có một điểm chung nào với vật lý hiện đại. Khi ta nghĩ về các quá trình khoa học, một số từ ngữ nhất định luôn hiện ra mồn một: tính khách quan, thí nghiệm, sự thực v.v. Với ngôn ngữ khách quan của các nghiên cứu khoa học, ta tưởng tượng ra một sự phản ánh hoàn hảo thế giới thực. Còn các bức họa dù có sâu sắc và uyên thâm đến đâu thì cũng chỉ là vẽ vời nên mà thôi.

Quan niệm khoa học là công cụ duy nhất có thể giải thích mọi vấn đề dựa trên một giả định ngầm rằng, trong khi nghệ thuật phát triển quay vòng dựa theo các xu hướng chủ quan, thì kiến thức khoa học phát triển theo một đường thẳng đi lên. Lịch sử khoa học được coi như tuân thủ một phương trình đơn giản: thời gian + dữ liệu = sự hiểu biết. Chúng ta tin rằng một ngày, khoa học sẽ có thể giải quyết được mọi thứ.  

Nhưng kết quả của khoa học hiện đại là, chúng ta càng biết nhiều về thực tế - chẳng hạn như về cơ học lượng tử hay nguồn gốc thần kinh - thì càng nhận ra mình chưa hiểu quá nhiều điều. Lần đầu tiên, các nhà khoa học đang công khai nghi ngại rằng con người sẽ chẳng bao giờ lý giải được vũ trụ. Liệu một trong các lý do có phải là vì các nhà khoa học ngày nay không còn nói đến những bắc cầu giữa các nguyên lý nghệ thuật và khoa học nữa? Ta không thấy ở đâu mà nghệ thuật lại được tham khảo một cách nghiêm túc, chứ chưa nói đến được khuyến khích sử dụng, trong một tiến trình nghiên cứu khoa học. 

Ví dụ trên về Bohr đã cho thấy: khoa học cần nghệ thuật. Ta cần tìm chỗ cho người nghệ sỹ trong quá trình thử nghiệm của khoa học, cần khám phá lại những gì Bohr đã quan sát được khi ông ngắm nhìn những bức họa lập thể. Các nhà vật lý, nhà khoa học thần kinh v.v. đều có thể mở những cánh cửa ngăn cách mình với thế giới bên kia của âm nhạc, hội họa, thơ văn v.v. để được tiếp những ánh sáng mới, những góc nhìn mới về thế giới thực đa chiều, nhiều tầng lớp này.

Những rào cản trong khoa học hiện nay cho thấy rõ rằng sự tuyệt giao giữa khoa học và nghệ thuật không chỉ là một vấn đề mang tính học thuật mà là một vấn đề thực tế, kìm hãm sự phát triển của các lý thuyết khoa học. Chúng ta cần phải kết nối lại hai nền văn hóa này. Bằng cách lắng nghe sự thông thái của nghệ thuật, khoa học có thể thu được những hiểu biết và góc nhìn mới - những hạt giống của tiến bộ khoa học.

Nguồn: Khánh Minh - Tia Sáng
(trích dịch từ bài viết của Jonah Lehrer; http://seedmagazine.com/content/article/the_future_of_science_is_art/
)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Đoản văn này được George Orwell viết năm 1936 kể về khoảng thời gian ông làm việc như một nhân viên bán sách bán thời gian tại tiệm sách cũ Booklover’s Corner tọa lạc ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London, nước Anh. Hiện nay tiệm sách cũ Booklover’s Corner không còn nữa, thay vào đó là một nhà hàng pizza, tuy nhiên ở đó còn gắn một tấm biển ghi rằng “George Orwell, nhà văn (1903 - 1950) từng sống và làm việc trong một tiệm sách ngay vị trí này”.

  • Tác giả Oriana Fallaci lột tả cảm xúc của người phụ nữ từ lúc mang thai, dằn vặt nội tâm giữa việc giữ hay từ bỏ đứa con trong bụng, đến khi đau đớn mất con.

  • Sau gần một thế kỷ bị chìm trong quên lãng, "Temperature" - tác phẩm của nhà văn F. Scott Fitzgerald - đã được xuất bản trên một tạp chí.

  • Chúng tôi giới thiệu với bạn đọc một tư liệu văn học khá đặc biệt mới được công bố lần đầu trên tuần báo Ngọn lửa nhỏ (số 49 tháng 12-1988) Liên Xô, có liên quan số phận cuộc đời của nhà thơ Nga mà hiện nay tên tuổi ông đã trở nên nổi tiếng thế giới - Iôxíp Brôđxki (giải thưởng Nô ben).

  • Một khu triển lãm thuộc địa nhằm ca tụng quá trình chinh phạt của thực dân Pháp, trong đó có nhiều di tích đến từ Việt Nam, hiện đang hoang phế điêu tàn.

  • Năm 1854, Nhật Bản chính thức “mở cửa” sau khoảng 250 năm thực thi chính sách Sakoku (Tỏa quốc) dưới thời Edo (1600-1868) và không lâu sau, gấp gáp bước vào công cuộc Duy tân thời Minh Trị (1868-1912) với hàng loạt đổi thay mạnh mẽ.

  • NGUYỄN DƯ

    Tôi vốn không thích đi đến những nơi xa lạ. Ngại những cái phiền toái.

  • WILLIAM B NOSEWORTHY 

    "Những cuốn Lịch Sử Thơ Mỹ” chỉ có bốn ấn bản chính đáng kể, được viết theo chủ đề trên.

  • SERGEI BELOV
          Tiểu truyện

    Trên góc đường Malaya-Meschanskaya và Stolyrany có một chung cư trông thật khiêm tốn, đó là nơi nhà văn Dostoievsky với đứa cháu của người vợ đã mất cùng bà nhũ mẫu trung thành đang ở.

  • Ở các nước phương Tây trước đây, tóc thường được lấy từ di hài người vừa nhắm mắt xuôi tay và giữ làm vật lưu niệm trong gia đình. Các món tóc từng ở trên đầu hai nhà soạn nhạc bậc thầy Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven đã được đem ra bán đấu giá trong cùng một phiên tại nhà Sotheby London vào ngày 28/5 mới đây, sau một đợt triển lãm cho công chúng thưởng ngoạn.

  • Mặc dù năm nay khép lại với kết quả gây đầy tranh cãi, LHP Cannes vẫn là nơi đáng mơ ước cho mọi nhà làm phim trẻ, mong tìm được bệ phóng tốt cho giấc mơ điện ảnh của mình.

  • (Đọc “Cuộc cách mạng một-cọng-rơm”)*

    Từ một chuyên viên trong văn phòng của một viện nghiên cứu, chàng trai tuổi đôi mươi Masanobu Fukuoka bỏ ngang xương để trở thành một nhà nông nuôi dưỡng tín điều duy nhất: làm nông theo hình thái tự nhiên.

  • Vlađimia Maiakôvski (1893 - 1930) là nhà thơ đầu tiên ở thế kỷ XX đã cống hiến tài năng lớn lao của mình cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cái vốn thơ dấn thân, say mê và dữ dội của ông, ông đưa nó ra đường phố, hướng về phía quần chúng và biến nó thành "chỉ huy sức mạnh con người".

  • LTS: Dana Gioia là một nhà thơ, nhà phê bình, và thầy giáo hiện ở Mỹ. Ông sinh năm 1950 tại Los Angeles. Ông học đại học Standford và tốt nghiệp M.A về Văn chương Đối chiếu từ Đại học Harvard trước khi làm việc trong ngành kinh doanh. Sau 15 năm làm quản trị thương mại ở New York, ông bỏ chức phó chủ tịch công ty để toàn tâm viết sách và dạy học.

  • Hẳn là đã có rất nhiều người nghe nói đến cuộc tranh luận uyên bác kéo dài hơn 200 năm đề cập đến những bài Xô-nêt của Shakespeare và những cố gắng chưa có kết quả nhằm nhận ra những nhân vật chính trong các tác phẩm, đó là "Người đàn bà sầu thảm" và "Cậu bé dễ yêu".

  • TRẦN PHƯƠNG LINH

    Gunter Grass, tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức, từng đoạt giải Nobel văn học năm 1999, vừa qua đời ngày 13/4/2015 tại bệnh viện ở thành phố Lubeck-Đức, hưởng thọ 87 tuổi.

  • Triết hiện sinh chia tay với triết học "trừu tượng". Nó quan tâm đến tính chủ thể cụ thể của con người, chứ không phải khái niệm trừu tượng về "chủ thể". Đó là lý do nhiều triết gia hiện sinh (như Sartre, Camus...) chọn hình thức văn nghệ (tiểu thuyết, kịch...) để đến gần hơn với đời sống thực, nói lên những băn khoăn, thao thức, đau khổ và lựa chọn trong "thân phận" làm người.

  • (Vài suy nghĩ nhân đọc thư của các bạn Việt Nam nghe đài Matxcơva)

    IRINA ZISMAN MÔSCƠVINA (Nhà báo Liên Xô)

  • Series hòa nhạc tương tác dành cho trẻ nhỏ dưới tám tuổi Bach Before Bedtime đang nỗ lực xóa bỏ khoảng cách cố hữu giữa nghệ sĩ và khán giả, làm cho môi trường âm nhạc cổ điển trở nên thân mật nhất trong khả năng có thể.