Nhưng, ở đây, chúng tôi chỉ chọn bốn bài có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của tác giả: bốn bài làm lúc ông là một người tù cắt cỏ ngựa ở trạm (công văn) Thừa Nông (ở chỗ ga Nong bây giờ).
Số là, năm Tự Đức thứ 3 (1850), khi đang làm chức khởi cử chú (thư ký ghi lời nói và việc làm của vua) ở kinh diên (phòng đọc sách của vua) thuộc Viện Tập hiền (Viện Văn học của vua), ông nhị nguyên hai mươi chín tuổi đó, đã cả gan phê bình vua ham mê vui chơi, bỏ lơi triều chính, bằng những lời lẽ thiết tha và thẳng thắn mà người dám nói đó phải trả bằng một giá đắt: bị triều đình kết án đày khổ sai vì tội phạm thượng.
Thân thích và bạn bè (trong đó có ông hoàng thúc Thương Sơn, thám hoa Phan Thúc Trực, giải nguyên Đặng Huy Trứ v.v...) thương lo cho số phận của ông, nhiều người đến thăm ông ở trại tù. Nhưng ông cứ thản nhiên, ung dung tự tín về việc làm đúng của mình, sau những giờ lao dịch thì câu cá, ngắm cảnh, thù tiếp bạn bè và ngâm vịnh, lấy câu nói của thầy Mạnh làm châm ngôn: "Ta việc gì mà chẳng vui?". Trong thời gian này, ông lấy biệt hiệu "Nông giang điếu đồ" (gù câu cá sông Nong) và sáng tác tập thơ “Nông giang thi lục” (sau này được xếp vào quyển 3/26 của bộ "Giả Viên toàn tập"). Ngoài ra, còn một số bức thư mà nổi bật nhất là bức thư trả lời ông anh cả cử nhân Phạm Phú Duy; ngỏ ý muốn dời mộ ông cụ thân sinh để em được thoát nạn.
![]() |
Bài 1. LỤC NGUYỆT HỐI NHẬT NÔNG GIANG VÃN THIỀU
Sơn như bút giá, thủy như trì
Chỉ xích phong quang vãn cánh nghi
Cách độ nhân thanh huyên xã thị
Dao (diêu) thôn tà chiếu quải xuân kỳ
Tiều ngư lạc thú điền gia cận
Mai liễu hương phong dịch lộ trì
Chân cảnh thiên nhiên bức đồ hội
Khách lai giang thượng tự đề thi
Dịch: Sông Nong nhìn xa chiều ba mươi tháng chạp
Non như giá bút, nước như nghiên
Cảnh sắc chiều tà đẹp một miền
Cách bến đò ngang, ồn tiếng chợ
Cờ xuân nắng đọng, tít thôn bên
Ngư tiều vui thú, nhà nông kế,
Mai liễu gió thơm, ngựa trạm truyền
Phong cảnh thiên nhiên như tranh vẽ
Bên sông, khách đến vịnh thơ liền.
![]() |
Bài 2: TRỪ TỊCH THỦ TUẾ
Nhất đông hàn tận, kiến xuân huyên
Lộ bạch phong nhu, dạ khí ôn
Độc tự tuần thiềm vọng tinh đẩu,
Thâm tiêu quang thái triệt giang thôn...
Dịch: Giờ giao thừa đêm ba mươi tháng chạp
Ấm xuân kế tiếp rét đông qua,
Đêm ấm, sương trong, gió phất phơ
Thơ thẩn ngoài hiên trông tinh tú
Đêm khuya, sông xóm cảnh nên thơ
![]() |
Bài 3: TÂN HỘI NGUYÊN ĐÁN THỨ BÚT
Đông phong tạc dạ nhập giang đàm
Trúc ngoại, tình lưu, quyện hiểu lam
Vương khuyết, xuân liên Bình lĩnh (lãnh) bắc
Phần hương, thiên tại Hải Vân nam
Dung thân, trực thị càn khôn đại
Ẩm tiết do tri vũ lộ cam
Nhiễm hàn hỉ niêm tân tuế nguyệt
Hồng tiên đề xứ khởi xuân tàm
Dịch: Thử bút sáng mồng một năm Tân Hợi
Gió đông đêm trước lọt sông đầm
Bờ trúc, dòng sông cuốn khói lam
Núi Ngự, Xuân về trên đất bắc
Hải Vân, quê đẹp dưới trời nam
Thân yêu, ấy bởi Đất Trời rộng
Rượu Tết, là nhờ mưa móc dầm
Bút trơn thử ghi thơ chúc Tết
Giấy hồng dán đó, dậy nong tằm
![]() |
Bài 4: TỨC SỰ
Thôn cư hà vật chí tân niên?
Môn ngoại, hồng niêm tải lộ truyền
Kiến thuyết ky nhân do súc mặc,
Yêu đề danh cú tác xuân liên
Dịch: Cảm nghĩ về việc trước mắt
Thôn quê Năm Mới, viết gì đây?
Ngoài cửa, giấy hồng: lệnh chúa này
Thấy nói tù nhân đà sẵn mực
Mừng Xuân, câu đối muốn làm hay.
Quang Uyển sưu tầm và dịch - Nguyễn Đình Thảng viết chữ Hán
(TCSH60/02-1994)
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng