LUÂN NGUYỄN
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
(Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)
Ảnh: internet
Nguyễn Trãi bị nhà Lê sơ kết án tử gần sáu thế kỷ trước (mùa thu năm 1442). Học giả Đào Duy Anh (trong Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1976) cùng một số nhà nghiên cứu khác lý giải bi kịch đó bằng các sự kiện và suy luận lịch sử; kết luận chung: hoàn cảnh phong kiến (Feudal condition) đã đẩy ông đến cái chết oan khuất. Chúng tôi lý giải bi kịch vô tiền khoáng hậu ấy theo hướng khác: đi tìm căn nguyên nội giới.
1. Trí thức như là lương tâm của xã hội
Trí thức: tiếng Anh: intellectual, tiếng Pháp: intellectuel, tiếng Đức: Intellektuelle, tất cả đều bắt nguồn từ chữ intellectualis trong tiếng La Tinh, có nghĩa là sự hiểu biết. Trong tiếng Hán, chữ trí 智 cũng có nghĩa là biết (cùng nghĩa này, có các chữ như: trí giả - người hiểu biết, trí năng - năng lực hiểu biết,…); chữ trí thức (智 識) được Đào Duy Anh định nghĩa như chữ tri thức (知 識), tức là “biết, những điều mình hiểu biết”(1). Như vậy, nghĩa gốc của trí thức nhấn mạnh vào hai vấn đề: tri thức và sự hiểu biết chúng. Đây là cách hiểu từ nguyên, hai điều kiện của trí thức vừa nói chỉ là điều kiện cần. Trong thực tiễn xã hội, trí thức được hiểu là một tầng lớp. Do đó, người trí thức mang bản chất không thể thay thế của tầng lớp mình. Bản chất đó bao gồm bốn vấn đề: một là, sáng tạo; hai là, không ngừng suy tư và phản biện xã hội; ba là, cả hai điều kiện trên không tách rời giá trị dân tộc; cuối cùng là lòng tự trọng trí thức. “Nô lệ” tư duy, vô can trước thời cuộc và thiếu lòng tự tôn các giá trị cốt lõi không phải giá trị của người trí thức. Tri thức chỉ là phần của vấn đề “trí thức”. Vì thế, từ khái niệm “trí thức”, chúng ta có luôn các ý niệm: trí thức chân chính, trí thức dân tộc, phản trí thức. Dưới đây chúng tôi bàn tiếp về bi kịch Nguyễn Trãi - một thất bại của người trí thức trong xã hội quân chủ Nho giáo.
2. Khối mâu thuẫn của một trí thức hay sự thất bại của truy vấn: tôi là ai?
2.1. Truy vấn thứ nhất: triều đại hay dân tộc?
Bi kịch Nguyễn Trãi xảy ra trong bối cảnh mô hình nhà nước quân chủ Nho gia phát triển đến giới hạn ở khía cạnh tập trung quyền lực.
Đến triều Hồ (1400 – 1407), nhà nước phong kiến Đại Việt đã trải qua hơn 450 năm tự chủ. Tiến trình đó là một diễn trình có chủ đích của lịch sử: từng bước tập quyền hóa nhà nước trên nền tảng Nho giáo. Qua các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, đến Lê sơ - ngang thời Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), nhà nước phong kiến Việt Nam đã “dọn dẹp” gần như tuyệt đối các trở lực trên đại lộ đã định của mình. Các thế lực cát cứ do các tù trưởng miền núi cầm đầu được bình định. Lực lượng cầm quyền từng bước được Nho giáo hóa qua con đường khoa cử. Người cầm quyền, từ chỗ là thế lực trên lưng ngựa (Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn) - hình ảnh tiêu biểu cho cường quyền theo nghĩa hẹp, hay thế lực trong nhà chùa (Lý Công Uẩn), một dạng của thần quyền, đã chuyển thành: thế lực cầm bút (bắt đầu từ Trần Minh Tông) - những nhà Nho. Quỳnh Lâm tự - một trong ba trung tâm Phật giáo Trúc Lâm đời Trần - cũng là nơi cư ngụ của thi phái Bích Động do các đại nho thời Trần Minh Tông như Tư đồ Trần Quang Triều, Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn chủ xướng(2). Tinh thần bài Phật được Hồ Quý Ly đẩy mạnh bằng việc tổ chức hai kỳ thi với dụng tâm tôn Nho, khắc Phật rõ nét: thi Thái học sinh để bổ dụng nho sĩ, thi tìm hiểu kinh Phật để thanh lọc lực lượng nhà chùa. Đến đây, chính thể Nho giáo gần như hoàn chỉnh, và con đường của dân tộc, con đường nhà nước phong kiến Nho giáo theo kiểu Đông Á đã được lập định dưới đạo lý - ngọn roi của họ Hồ.
Thế nhưng, lộ trình quân chủ Nho giáo ở Việt Nam bị đứt đoạn trong hơn 20 năm chiến tranh kháng chiến chống quân Minh. Khác với các cuộc kháng chiến đời Lý - Trần, trong cuộc chiến này, nhà Hồ sớm bại. Xã hội và lòng dân vô cùng bấn loạn. “Người lớn thì phía nam chạy xuống Chiêm Thành, phía tây trốn sang Đại Lý”(3); “Than ôi! Họa loạn tột cùng đến mức như vậy!”(4) - sử thần Ngô Sĩ Liên phải thốt lên. Cần lưu ý, trong bối cảnh ấy, quân Lam Sơn nổi lên ở phía tây Thanh Hóa chỉ là một thế lực quân sự dưới tay một thủ lĩnh miền núi. Vì thế, lời hiệu triệu của Lê Lợi không có tư cách của một lời hịch cần vương. So với thế lực quân sự của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng trước đó, Lê Lợi rõ ràng không đủ danh chính ngôn thuận. Nhà Nho Nguyễn Trãi bị đẩy vào thế cờ hóc hiểm. Thân phụ Nguyễn Trãi chịu đại ơn họ Trần. Ông là cốt tủy họ Trần. Nhưng lại ra làm quan cho họ Hồ. Theo Lam Sơn khởi nghĩa, nhà Nho ấy đã chọn việc dự phần vào cuộc kháng chiến dân tộc, thay vì phụng sự một triều đại mà về bản chất, chỉ là một dòng họ. Chiếc mũ nhà Nho với ông trở nên một định mệnh khắc nghiệt.
2.2 Truy vấn thứ hai: đâu là đường về bản ngã hay là sự bế tắc và thất bại của người trí thức Nho giáo?
Ở trên chưa phải là mâu thuẫn quyết định đến định mệnh Nguyễn Trãi. Vì nếu điều căn cốt nằm ở đó thì sau khi giải phóng đất nước, triều đại mới được dựng lên, ông cũng phải được “giải phóng” mới đúng. Thực tế diễn ra điều ngược lại: Nguyễn Trãi lún tiếp vào mâu thuẫn khác: giữa lý tưởng chính trị mang sắc màu nghệ sĩ với giới hạn chính trị của thể chế quân chủ tập quyền. Nếu trong truy vấn trước, ông tìm được lời giải thì lần này, ông không tìm thấy đường ra. Hành trình đi tìm lối ra của ông đồng nghĩa với con đường giải đáp truy vấn: tôi là ai?
Nguyễn Trãi lĩnh chức vị Nhập nội Hành khiển, tước Quan phục hầu (vì gia nhập Lam Sơn muộn hơn 4 năm, 1423), nhưng được bù lại bằng danh chức Vinh Lộc đại phu - chức Đại phu cao nhất triều Lê (tương đương quan nhất phẩm), ngoài ra ông còn giữ chức Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự, đời Thái Tông. Nhà chính trị ấy rất ý thức về tước vị của mình vì nó giúp ông thỏa cái tâm “Văn Chính”: “Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa”. Nhưng, Nguyễn Trãi, hậu kỳ Lam Sơn khởi nghĩa, cũng đã nhìn ra sự xuống dốc của thể chế quan liêu: “Ai ai đều đã bằng câu hết. Nước chẳng còn có Sử Ngư” (Mạn thuật, 14)(5). Con người chính trị ở ông trở nên mâu thuẫn gay gắt giữa lý tưởng và hiện thực. Trong hoàn cảnh của ông, các nhà Nho lớn khác thời trung đại đều chọn đường rút lui khỏi chính trường để bảo toàn nhân cách. Nguyễn Trãi cũng “tàng” đời Lê Thái Tổ sau khi bị bắt giam 10 tháng, nhưng lại “hành” đời Thái Tông. Điều đó cho thấy, tâm hồn ông bị giằng kéo bởi dòng hải lưu chính trị rất quyết liệt. Chính trị ở ông đã biến thành nền chính trị lý tưởng, là cuộc hạnh ngộ mơ mộng giữa tinh thần Nho giáo khởi nguyên (vô thần) với tâm thức nghệ sĩ. Đó thực ra là sự bế tắc và thất bại của người trí thức Nho giáo trong việc giải quyết giới hạn của thể chế quân chủ cũng như sự tha hóa (entfremdung)(6) của cuộc cách mạng dân tộc mà nó tiến hành trước đó. Vấn đề chung của một lực lượng kháng chiến là giành độc lập dân tộc, vấn đề của một chính quyền nhà nước, trước tiên, là quyền lực (Power). Cách mạng có thể giải phóng một dân tộc, nhưng quyền lực thì không thể mang lại tự do. Cách mạng có thể nhân đạo với kẻ thù, nhưng quyền lực không nhân nhượng bất kể ai, nhất là một trí thức như Nguyễn Trãi. Người thủ lĩnh quân kháng chiến có thể “không nỡ giết” tướng giặc là Hoàng Phụ(7), “tha cho mười vạn quân hàng”(8), nhưng một ông vua lại sẵn sàng “sai người đuổi theo giết” Trần Cảo (vị vua bù nhìn, dòng dõi nhà Trần), “ném xác vào bụi gai”(9). Những công thần như Trần Nguyễn Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi cũng không thể thoát nạn. Nguyễn Trãi nhận thấy những suy thoái của quan trường nhưng không cho đó như là hạn chế của một mô hình nhà nước. Đây là bi kịch lớn nhất của đời ông.
Nguyễn Trãi rất tiêu biểu cho kiểu cộng sinh nhà Nho chính trị - nhà Nho nghệ sĩ, nhưng là cộng sinh trong sự mâu thuẫn. Những mâu thuẫn mang mầm bi kịch Nguyễn Trãi được phóng chiếu khá toàn diện trong tập thơ quốc âm của ông. 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập gồm nhiều cụm chủ đề. Những bài thể hiện tâm sự của nhà thơ đều trình hiện ra “một thế giới bị chẻ đôi”, sự mâu thuẫn giữa hai bán cầu: bán cầu của con người đạo đức, chính trị - nhập thế và bán cầu của con người tự tại - xuất thế. Chủ thể tính (subjectivité) của nhà thơ được xác lập từ chính sự mâu thuẫn. Trong Quốc âm thi tập, con người Nguyễn Trãi bao giờ cũng rốt ráo đi tìm/xác lập bản ngã trong các kiểu quan hệ khác nhau, thậm chí, đối chọi nhau gay gắt. Con người đạo đức - chính trị hiển lộ trong tư thế bổn phận: với vua, xoay quanh đạo lý Nho giáo. “Bui có một lòng trung với hiếu. Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Thuật hứng, 24), “Chữ học ngày xưa quên hết dạng. Chẳng quên có một chữ cương thường” (Tự thán, 12). Con người tự tại, ngược hẳn, ý thức được mình qua các quan hệ vũ trụ (với trăng thanh, nước biếc,…), bằng sự quán chiếu khách - chủ, “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi. Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” (Bảo kính cảnh giới, 26), “Đồ thư bốn vách nhà làm của. Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền” (Bảo kính cảnh giới, 36). Quốc âm thi tập được phân đôi trong từng nhóm bài (thuộc các phần) và có khi, trong nội bộ từng bài cũng bởi hai mặt nhân cách đó.
Nguyễn Trãi thuộc kiểu nhân cách đa nguyên. Ông sống trong mâu thuẫn, mâu thuẫn đến chênh vênh, “Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải”. Mâu thuẫn không dứt đã dẫn ông đến ưu tư. Ông ẩn dật trong ưu tư, ưu tư khi ẩn dật, càng đóng vai ẩn dật, càng ưu tư. Nguyễn Trãi ưu tư như một sự nhận thức về mình. Ưu tư đẩy ông vào vòng xoáy tâm thức. Vì thế, nó không thể dẫn ông đến tự do. Ông xem mình là Văn Chính “âu sơ chẳng quản đeo sầu” để mang vác khôn nguôi nỗi khắc khoải: “Bui một quân thân ơn cực nặng. Tơ hào chưa báo hãy còn âu” (Mạn thuật, 5). “Con ngựa già ham rong ruổi” như cách ông tự ví, suy tận cùng, cũng là cái ách ông sắm cho mình trên sân khấu cuộc đời. Từ khi làm quan triều Lê, Nguyễn Trãi không bao giờ yên sống trong phận vị mà lịch sử đặt/ buộc ông vào. Ông làm quan trong tư cách của một nghệ sĩ “để trong thôn cùng xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu”, và làm thơ với tư thế của một triều quan “bui có một lòng trung với hiếu” (Thuật hứng, 24). Ở đây, ông khác xa Chu An – người trước ông, Nguyễn Bỉnh Khiêm – người sau ông. Triều đại phong kiến không phải là căn nguyên của bi kịch Ức Trai. Mô hình nhà nước vua chí tôn không thể để ông khiến dân chúng vô can trước quyền lực quân chủ: “khắp thôn cùng xóm vắng không một tiếng hờn giận, oán sầu”. Ông dấn mình vào một mô hình nhà nước đầy hạn chế bằng tâm thức nghệ sĩ. Càng đi sâu, ông càng tự mình mâu thuẫn và không tìm thấy lối ra. Ông không được tự do vì thế. Đời Ức Trai bi kịch bởi ông không có tự do. Khi thời khắc “Phong sương đã bén biên thi khách” choàng tới, nhà Nho ấy lặng lẽ nghiệm sinh bản mệnh “Chiều mai nở chiều hôm rụng” và sự bế tắc hiện sinh của chính mình, điều mà F. Nietzsche phát biểu trong cuốn sách cuối đời ông: “Ecce Homo”: “Tôi là cặp bài trùng của chính tôi” nhưng, “làm thế nào mình trở thành chính mình”(10)?
L.N
(SH301/03-14)
...........................
Chú thích
1. Đào Duy Anh biên soạn (2001), Hãn Mạn Tử hiệu đính, Từ điển Hán Việt, Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 485 và 487.
2. Xem thêm Nguyễn Huệ Chi, Hiện tượng hội nhập văn hóa thời Lý - Trần, http://daitangkinhvietnam.org.
3, 4, 7, 8, 9. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Hoàng Văn Lâu dịch, chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính, Đại Việt sử ký toàn thư - bản in năm Chính Hòa 18 (1697), Khoa học xã hội, Hà Nội, lần lượt các trang: 361, 362, 353, 362 - 363, 364.
5. Tất cả trích dẫn Quốc âm thi tập đều lấy từ Nguyễn Trãi toàn tập, Viện sử học, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.
6. Tha hóa (entfremdung): khái niệm nói lên: Thứ nhất, quá trình và những kết quả chuyển hóa của các sản phẩm hoạt động của con người (các hoạt động thực tiễn lẫn hoạt động lý luận) cũng như của những đặc tính và năng lực của con người thành một cái gì độc lập đối với con người và thống trị con người; thứ hai, sự chuyển hóa của những hiện tượng và quan hệ nào đó thành một cái gì khác với bản thân chúng, sự bóp méo và xuyên tạc trong ý thức của con người những quan hệ sinh sống hiện thực của họ (Từ điển triết học, Tiến bộ, Sự thật, Maxcơva, Hà Nội, 1986, trang 528 - 529). K. Marx nói về tha hóa trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844: “Sự tha hóa của công nhân vào sản phẩm của anh ta không những chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ta trở thành một vật, một tồn tại bên ngoài, mà còn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn tại ở bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh ta, xa lạ với anh ta” (Mác – Anghen tuyển tập, tập 1, Sự Thật, Hà Nội, 1980, trang 111). Xem thêm Luân Nguyễn, Chân lý như là sự tha hóa về chân lý, phebinhvanhoc.com.vn
10. Xem F. Nietzsche, Ecce Homo, Phạm Công Thiện (dịch), Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn, 1969.
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.
HOÀNG TẤT THẮNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.