Bí ẩn về khu lăng mộ của các thái giám

08:35 11/08/2015

Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...

Toàn cảnh khu lăng mộ thái giám

Chuyện đời của những người không mang giới tính
Theo sử cũ còn để lại thì thái giám ra đời từ thời Tây Chu ở Trung Quốc.  Trước khi đưa vào hoàng cung để hầu hạ các bậc vua chúa, các thái giám phải bị loại bỏ phần sinh thực khí của đàn ông để không “tòm tem” với các phi tần cung nữ của nhà vua được.
Công việc của các thái giám là hầu hạ vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Một vài thái giám khác được điều sang phục dịch cho các cung phi góa bụa của các đời vua trước. Thái giám còn là người tuyển lựa và ghi chép tên của các cung phi được vua “sủng ái hằng đêm”, sau đó báo với quốc sử quán để theo dõi dòng tộc hoàng gia về sau.
Các thái giám sau khi bị loại bỏ sinh thực khí, sẽ bảo quản “bảo vật” của mình cẩn thận vì mất thì sẽ bị chém đầu. Bởi vì mỗi lần thăng quan tiến chức họ phải đem trình “bảo vật” của mình cho một nhóm người có địa vị trong triều đình để kiểm tra. Có những trường hợp, các hoạn quan phải mua lại sinh thực khí của những người khác. Tuy nhiên, việc này rất nguy hiểm, vì lộ ra sẽ phải bị chém đầu hoặc tru di cả họ vì tội lừa dối.
Huế là kinh đô của nhà Nguyễn, vì vậy vẫn còn tồn tại những thái giám, mỗi triều đại thời Nguyễn có trung bình khoảng 200 thái giám phục vụ trong triều đình.
Vào thời Nguyễn, thường có 2 “nguồn” để tuyển thái giám. Một là, những người sinh ra đã ái nam ái nữ (được gọi là “giám sinh”). Thời đó, ở bất cứ làng nào tại Huế nếu sinh được “giám sinh” thì đó là phúc của cả một làng. Khi “giám sinh” này tuyển vào hoàng cung, nhà vua sẽ ban thưởng bổng lộc. Tuy nhiên, nếu có “giám sinh” mà không khai báo thì sẽ bị phạt rất nặng. Chính vì vậy mà vào thời Nguyễn các “giám sinh” được gọi là “ông bộ”.
Tuy nhiên, việc sinh được “giám sinh” rất khó, nên nguồn thứ hai chính là việc tuyển chọn từ bên ngoài. Đó là những gia đình nghèo khổ nên phải cho con làm thái giám. Cũng giống như thái giám ở Trung Quốc và các triều đại trước, thái giám triều Nguyễn phải loại bỏ sinh thực khí của mình. Các thái giám sẽ sống suốt đời trong cung đến cuối đời, khi về già họ sẽ nằm chờ chết tại tòa nhà phía Bắc Hoàng thành, gọi là “Cung giám viện” chứ không được chết ở trong cung.
Hoang tàn lăng mộ các thái giám
Về cuối đời, các thái giám đã biết được số phận bi đát của mình, chính vì vậy khi còn khỏe mạnh họ cố gắng dành dụm tiền bạc để tìm nơi chôn cất cho cho chính mình, và nơi họ chọn để yên nghỉ chính là chùa Từ Hiếu.
Chùa Từ Hiếu vốn là một am tự để tu tại gia có tên là “Thảo Am đường” do hoà thượng Thích Nhất Định lập ra để phụng dưỡng mẹ già. Sau đó vào khoảng năm 1848 “Thảo Am đường” được trùng  tu và mở rộng nhờ sự giúp đỡ của một thái giám có tên là Châu Phước Năng.
 Chùa Từ Hiếu - nơi an nghỉ của các thái giám
Sau khi về già các thái giám bị đuổi ra khỏi cung, không nơi ở, không người thân, không quê hương các thái giám chỉ biết sống qua ngày và chờ chết tại “Cung giám viện”. Châu Phước Năng sớm nhận ra điều này, sau khi chết không có nơi nào để chôn cất, không nơi thờ tự, không ai hương khói. Trước cơ sự như vậy, thái giám Châu Phước Năng đã kêu gọi các hoạn quan trong triều đình quyên góp và ủng hộ để mở rộng “Thảo Am đường” nhằm có nơi yên nghỉ. 
Việc này được vua Tự Đức và thái hậu Từ Dũ chấp nhận đồng thời cũng quyên góp để mở rộng “Thảo Am đường”. Cái tên Từ Hiếu được vua Tự Đức ban tặng có nghĩa là “hiếu thuận”, do có sự giúp đỡ và đóng góp của các thái giám nên ngôi chùa này còn có tên gọi khác là chùa thái giám.
Mặc dù đóng góp phần lớn của cải và công sức để xây dựng chùa nhưng sau khi chết các thái giám lại được chôn trên một ngọn đồi nhỏ nằm tách biệt khỏi khuôn viên của chùa Từ Hiếu.
Toàn bộ khu nghĩa trang của thái giám rộng khoảng 1.000m2, ở ngay chính giữa có tấm bia đá khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám. Khu lăng mộ này được chia làm thành 3 bậc tương ứng với vai trò và sự đóng góp khác nhau của các quan thái giám. Bậc trên cùng là của thái giám Châu Phước Năng, người đóng góp nhiều nhất cho chùa vì vậy ngôi mộ này cũng to hơn những ngôi mộ nằm cạnh bên. Toàn bộ khu lăng mộ có 25 ngôi mộ, trong đó có 2 ngôi mộ gió (mộ không có thi hài). Trong tổng số 25 ngôi mộ thì có 21 ngôi mộ có thể đọc được chữ trên bia, đặc biệt là ngôi mộ số 22 chữ trên bia còn khá rõ. Trên bia của ngôi mộ này ghi: Hoàng triều cung giám viện, quảng vụ Nguyễn Hầu, quên ở thôn Nhi, Hà Nội, mất tháng giêng năm Khải Định Thứ V. 
Ở chính giữa của cổng là một tấm bia đá nằm trong một hóc nhỏ ghi lại cuộc đời của các thái giám mà khi đọc lên người đời không khỏi chua xót: “Khi còn sống chúng tôi nương nhờ cửa Phật, mà khi chết thì biết nương nhờ vào đâu? Nhân thấy rằng phía tây thành có một miếng đất nên lấy gạch xây thành để có nơi thờ cúng về sau, gần với Phật mới là nơi thờ tự lâu dài, bằng hữu ốm đau có nơi chữa bệnh, ai nằm xuống có nơi để mà tống táng...”.
Thầy Mạnh hiện đang tu hành tại chùa cho biết, trước đây nền của khu lăng mộ này đã bi xuống cấp và nứt nẻ nhưng đã được sửa lại cách dây 7 năm, còn hệ thống tường thánh vẫn được giữ nguyên. Khu lăng mộ này có cửa tam quan khá lớn cao khoảng 15m, dài 7m và cũng như khu lăng này thì cổng tam quan cũng đã phủ màu của rong rêu, hoang tàn và lanh lẽo.
Cũng theo thầy Mạnh, khách du lịch đến với chùa hầu như không ai biết đến sự tồn tại của khu lăng mộ này, cứ Rằm tháng 11 hàng năm chùa lại tổ chức cúng viến cho các thái giám.
Thời vàng son của nhà Nguyễn đã qua đi, giờ đây khi đến với đất Huế, khách du lịch chỉ đến lăng tẩm, điền đài cung điện, nhiều người vẫn nhớ rõ các gia thoại ly kỳ về “9 chúa 13 vua triều Nguyễn”. Tuy nhiên, nhắc đến thái giám và phận đời của họ lại không nhiều người biết đến.
Đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “300 năm sau không biết có còn ai khóc Tố Như chăng?”, và các thái giám ở chùa cũng vậy, liệu càng về sau này có còn ai nhớ đến các thái giám và nơi an nghỉ của họ. Mọi người đến với chùa chỉ là để phúng viếng, cầu nguyện chứ ít tai biết và quan tâm đến khu lăng mộ này làm cho nó ngày càng lạnh lẽo và trơ trọi. Một thời vàng son của quá khứ đã qua đi và các thái giám cũng như các câu chuyện về họ cũng lụi tàn theo năm tháng.../.
Theo baophapluat.vn
 
 
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.

  • Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.

  • Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…

  • Chỉ xếp sau Hà Nội, cũng giống như Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế là tỉnh sở hữu cùng lúc 2 di sản đã được Unesco công nhận, đó là Di sản văn hóa phi vật thể Nhã nhạc Cung đình và Di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế.