Bể dâu mà không bể đâu anh!

09:06 22/05/2008
LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.

Sinh ký tử qui là lẽ thường của tạo hoá. Lúc sinh tiền, Trịnh Công Sơn rất ngộ và thường pha chút nghĩnh trong sáng tác và trầm tư. Nửa đùa nửa thực, anh đã vặn câu thơ nói về “cõi người ta” của Nguyễn Du thành: “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu”.
Cảm nhận được một chút cái ngẳng đời của anh, tôi vặn tréo lại để thấy anh như còn sống mãi, dẫu cho hình hài đã trở về với cát bụi.
Ngày xửa ngày xưa, Khuất Nguyên gõ mạn thuyền mà hát nói chuyện đục-trong; lại nay, còn mới toanh, Trịnh Công Sơn đã dùng chiếc đũa tre Việt Nam mà gõ thành thơ:
                        “Em đi bỏ lại con đường
                        Bỏ xa cỏ dại vô thường nhớ em”
Nhà báo đã từng hỏi Trịnh Công Sơn rằng: “Quê hương xứ Huế và Đạo Phật ảnh hưởng thế nào đối với sáng tác của nhạc sĩ?...” Và anh đã trả lời chắc nịch như đinh đóng cột đình, thật là: Huế và Đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thơ ấu của tôi...”.
Chỉ ngần ấy thôi mà khiến tôi phải mất công đi tìm, đi hỏi loanh quanh mặc dầu không khỏi bị người ta vặn vẹo. Được rồi! Thì ra, tuyệt quá: trọn gói cả gia đình anh, gồm cha mẹ và 8 anh chị em, tổng cộng 10 người, đều đã Qui y Tam Bảo từ năm Ất Mùi (1955) tại chùa Phổ Quang, Huế, nơi mà năm 1925, Ông Già Bến Ngự đã từng ở trọ, người Huế quen gọi là “ở đậu”...
Xưa, cụ Phan Bội Châu ở đậu 3 tháng tại chùa này, còn năm 1955 cho đến năm 1958, Trịnh Công Sơn thường đi chùa Huế, lên chùa Phổ Quang với mẹ cùng các em trai và gái thân thương của mình.
Tôi vốn không có năng khiếu về nhạc và thơ, nhưng lại thích văn. Gần đây, đọc bài Văn Tự của Trịnh Công Sơn, tôi khoái nhất câu mà anh đã viết:
“Những con đường ấy làm nên một thứ văn tự hay nói nôm na hơn là một thứ chữ viết báo hiệu sự có mặt của đời sống con người”.
Vâng, anh và gia đình anh đã lắm lần có mặt ở các chùa Huế như Vạn Phước, Từ Đàm, Linh Mụ, Thuyền Tôn... nhất là chùa Phổ Quang. Và đặc biệt như ký thác, gia đình anh đã để lại ấn tích sâu lắng, linh thiêng trên tập “Phổ Hệ” (ghi lại những tên họ và quê quán của các phật tử đã Qui y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) ở chùa ruột này. Gốc gác của thuật ngữ “Qui y” được lấy từ tiếng Phạn là “Na mô”, nghĩa là quay về mà nương dựa.
Nay thì đích thực hương linh anh mới trọ ở chùa Phổ Quang (không phải chùa Hiếu Quang đâu!). Anh Sơn ơi! Sau lễ truy điệu anh do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức vào đầu tháng 4 năm 2001 thì bát nhang của anh đã được đưa về thờ (ký tự) tại bàn thờ linh (thờ các tín đồ Phật giáo, đệ tử của nhà chùa). Ơ đây, anh đã thực sự “hội ngộ”, được thờ chung tại bàn linh đã tôn trí thờ hương linh thân phụ và cố mẫu của anh và các phật tử khác.
Bản thân tôi rất lấy làm vinh dự và may mắn được Thượng toạ Thích Huệ Ấn, Trú trì chùa đọc và dịch ra Việt ngữ Phổ Hệ bằng chữ Hán của nhà chùa đã ghi lại từ năm Ất Mùi (1955).
Văn tự này thật là thật, tôi vừa bùi ngùi vừa hồi hộp lắng nghe và biên chép.
- Cha: ông Trịnh Xuân Thanh, pháp danh: Nguyên Bình.
- Mẹ: bà Lê Thị Quỳnh, pháp danh: Nguyên Hoa.
Quê nội: làng Minh Hương, tổng Vĩnh Trị, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Anh là con trưởng của gia đình nên được ghi tên trước, rồi lần lượt đến 7 người còn lại:
Trịnh Công Sơn, Pháp danh: Nguyên Thọ.
Các em:
Trịnh Quang Hà, Pháp danh               : Nguyên Sa
Trịnh Xuân Tịnh, Pháp danh               : Nguyên Đạm
Trịnh Thị Hoàng Diệu, Pháp danh      : Nguyên Cát
Trịnh Thị Vĩnh Thuý, Pháp danh        : Nguyên Thâm
Trịnh Thị Vĩnh Tâm, Pháp danh         :           : Nguyên Ngộ
Trịnh Thị Vĩnh Ngân, Pháp danh:       : Nguyên Thuy
Trịnh Thị Vĩnh Trinh, Pháp danh:       : Nguyên Đàm
Chùa Phổ Quang nằm ở đâu? Đi theo lối chỉ đường mà anh đã viết trong bài “Văn Tự”. Trung thành với văn tự, tôi chỉ rõ đường lên chùa theo ý bài “CHIỀU TRÊN QUÊ HƯƠNG TÔI” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Đến chợ Bến Ngự, qua cầu cùng tên, đi lên đường rầy xe lửa, cạnh cổng chắn có cắm bảng ghi rõ tên chùa, rẽ vào hẻm số 29 đường Phan Bội Châu (trước kia là đường Nguyễn Hoàng) chừng gần 70 - 80 mét là thấu cổng chùa.
Thời anh mới nổi danh, tôi biết khá rõ về anh và luôn luôn tỏ lòng quý mến, cảm phục. Anh học trường Sư phạm Quy Nhơn khoá I (1962 - 1964) để theo nghiệp gõ đầu trẻ. Điều kiện để nạp đơn dự thi vào trường là ít nhất phải có bằng Tú tài phần thứ nhất. Cùng khoá với anh có Nguyễn Thanh Hải chơi đàn guy-ta điện vào hạng cừ phách và rồi cũng trở thành nhạc sĩ. Sau năm 1965, dân học Sư phạm Quy Nhơn rất tự hào về hai nhạc sĩ tài hoa này.
Vào một buổi tối mùa hè năm 1967, vì lòng ngưỡng mộ anh, sau khi xem triển lãm tranh vẽ của họa sĩ Lê Văn Tài (nay ở Úc), Người làng Tri Bưu, xã Hải Trí, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Vì tình cảm đồng hương mặn mà, họa sĩ Tài rủ tôi đi nghe công diễn nhạc Trịnh Công Sơn, có ca sĩ Khánh Ly hát. Tôi đi bộ cùng với Tài và một người bạn nữa từ phòng tranh (nguyên là Nha Thông tin Trung Việt) lên Giảng đường Viện Đại học Huế, số 3 Lê Lợi để xem và nghe trình diễn âm nhạc (récital).
Tôi kể đúng, nhớ đúng, chớ không phải thấy anh sang lại bắt quàng làm họ đâu.
Ấn tượng mà tôi còn nhớ mãi về anh là nét trầm tư thể hiện trên vầng trán của anh hiện lộ tính cách philo (xin hiểu theo nghĩa thật và dễ thương, dễ cảm)
Nay, các Thượng toạ đã một thời có điều kiện gần gũi anh như các thầy Thích Huệ Ấn (tuổi Quý Mùi, thua anh 5 tuổi), thầy Thích Phước Toàn ở chùa Vạn Phước, quận 11 thành phố Hồ Chí Minh, thầy Thích Chơn Nguyên, phụ trách phát hành kinh sách ở Viện Nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh đều khẳng định anh là con người có đời sống tâm linh phong phú, ăn nói có duyên và đượm đà tình cảm.
Thuở ấy, trong những năm 1955 - 1958, anh hay lên chùa Phổ Quang thăm Hoà thượng bổn sư, quý thầy và chúng điệu. Bổn sư là Hoà thượng Thích Chánh Pháp, Trưởng tử của Hoà thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng thống tịch năm 1973 tại Huế.
Do thích tìm hiểu nghĩa lý kinh sách chữ Hán, lúc có nhiều thì giờ rảnh rỗi, anh đã xin quý Thầy dịch ra Việt ngữ và phân tích ý nghĩa các bài kệ, bài sám, các phẩm kinh như kinh Phổ Môn của bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Anh thích văn của nhà văn Phật tử Võ Đình Cường qua tác phẩm Ánh đạo vàng, thích nghe và hát bài Sen trắng, dùng khẩu cầm để dạo thử bài Phật giáo Việt Nam của nhạc sĩ Phật tử Lê Cao Phan. Khoái nhất đối với anh là thổi khúc dạo đầu Trầm Hương Đốt của nhạc sĩ Bửu Bác làm cho các chúng điệu cười khúc khích.
Anh đã để lại trong ký ức của quý Thầy những hình ảnh hồn nhiên và mến đạo của một thư sinh (tuổi 16,17,18). Mẹ anh, một Phật tử thuần thành, đã phát tâm đi cúng dường các chùa Huế trong dịp các lễ hội quanh năm. Bà đã cúng dường cho Thầy Bổn sư một chiếc xe đạp đầm mà khung xe bằng dura (hợp kim nhôm) hiệu MERCIER của Pháp. Thời ấy xe này có giá, vừa quý lại vừa sang.
Người nào phát nguyện tín ngưỡng đạo Phật xin thọ phép Tam quy trước Tam Bảo mới được gọi là tín đồ đạo Phật. Bác sĩ Lê Đình Thám (1897 - 1969), nhà nghiên cứu Phật học, nguyên Hội trưởng Hội An Nam Phật học, đã nói và viết giống nhau về ý nghĩa của việc qui y một cách bình dị và dễ hiểu.
Pháp danh là “tên” của người đã qui y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Pháp danh của các người trong gia đình anh đều bắt đầu bằng chữ “Nguyên”, lấy từ chữ Nguyên trong bài kệ của Tổ Liễu Quán, khai sơn chùa Thiên Thai, nay là chùa Thuyền Tôn Huế, nơi đây bà con bên ngoại anh đã qui y.
Bốn câu đầu bài kệ bằng chữ Hán như sau:
Thiệt Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Chữ thứ hai của Pháp danh có thể lấy nghĩa lý từ tên của người xin qui y. Anh tên Sơn cho nên Thầy cho Pháp danh: Nguyên Thọ. Người phương Đông đặt tên cho con cháu thường hay chọn lựa bằng cách dùng tích, dùng điển. Người trí tuệ thì thích cảnh núi non hùng vĩ và những cầu mong:
Phúc Như Đông Hải
Thọ Tỷ Sơn
Bổn sư của anh đã cầu nguyện cho anh sau này sớm thoát áo thư sinh nên danh nên phận. Cũng theo phép đặt pháp danh khác, tên cụ thân sinh của anh là Thanh thì được bổn sư cho pháp danh: Nguyên Bình, bà thân mẫu tên Quỳnh thì có pháp danh là Nguyên Hoa.
Anh Sơn ơi, còn những gì tôi được biết về anh tôi sẽ ghi lại sau, mặc dầu anh với tôi chưa hề quen nhau và trong đời tôi chưa hề một lần được vinh dự bắt tay anh.
Một nén hương lòng, xin gởi lạy hương linh anh, nhớ lời anh đã viết:
Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi.
Nôm na ghi lại chuyện người, còn thiên khảo luận xin chờ nay mai.
Huế, ngày 10 tháng 6 năm 2001

LÊ QUANG THÁI
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG Trong các bậc mẫu nghi thiên hạ ít ai được như Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ. Bà là người mẫu mực về đức hạnh, yêu thương dân, nuôi dạy con giỏi và biết đối nhân xử thế; khi cần biết tham gia việc triều chính đúng mức, hiệu quả.

  • PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)

  • LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.

  • HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.

  • LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.

  • PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.

  • NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.

  • NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.

  • L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.

  • LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)

  • LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.

  • Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.

  • TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.

  • TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)

  • BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.

  • N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.