Bay mãi những câu thơ tin tưởng

09:19 23/12/2011
BÙI VĂN KHA (Đọc Máy bay đang bay và những bài thơ khác - Thơ Nguyễn Hoa - Nxb Hội Nhà văn, 2011)

Ảnh: nguyentrongtao.org

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Máy bay đang bay và những bài thơ khác là tập thơ mà nhà thơ Nguyễn Hoa sáng tác trong khoảng cuối cuộc chiến tranh chống Mỹ và một số bài trước và sau cận kề những năm bắt đầu thời kỳ Đổi mới. Khác với những bài thơ ngắn gần đây ở tập Ánh mắt Tươi hoặc tập thơ thiếu nhi Cây trong vườn ông nội, đây là tập in những bài thơ dài thuộc thể sử thi. Sự kết hợp cảm hứng từ chất liệu sử thi với triết luận công dân giúp anh vượt được không gian - thời gian cụ thể để cách thức giọng điệu thơ đắm chìm trong miền hiện thực tự cảm. Tôi gọi miền hiện thực tự cảm trong thơ Nguyễn Hoa vì chỉ ở trong thơ anh cái bản ngã - cái thi hứng - cái chất liệu - cái thể loại đồng hành đan quyện trong phẩm chất tác giả và trong cống hiến sáng tạo của anh. Vậy nên khác với những ồn ào nhiều giọng thuộc nhiều lớp tuổi của một số văn nghệ sĩ viết về thơ chống Mỹ nói thời kỳ này là thứ văn nghệ chủ yếu tuyên truyền, chụp ảnh, hình thức, thời sự, chính trị hóa... Nguyễn Hoa với tập thơ này, bằng cảm xúc và ngôn từ nghệ thuật minh định cho những ngày chưa xa của lịch sử vẫn đang góp vào bao vấn đề của những ngày hôm nay.

Nguyễn Hoa “bắt đầu từ nỗi nhớ/ Nỗi nhớ không sợ thời gian...” - (Dưới mặt trời). Nhưng dù là dưới ánh sáng mặt trời có cộng đồng và đồng đội thì nỗi nhớ ấy lại rất riêng tư từ tổ ấm. Quan niệm thời kỳ này coi gia đình nhỏ bé và thậm chí bị khái niệm chung trùm che đi. Điều đó đúng với giai đoạn ấy không có nghĩa là trong thơ không đặt vị trí của cá nhân và gia đình mình ở tầm tiên đề ở mức “cái tổ nếu tôi không có/ thì tôi như không có ở trên đời!” (Dưới mặt trời).

Từ nỗi nhớ và cái tổ, Nguyễn Hoa đến với một khái quát tự nhiên về một hình ảnh lớn hơn: “và những trang thư mỏng mảnh/ tôi cầm trên tay/ và tôi khóc/ bởi tôi biết những cánh buồm rách/ những dòng máu tươi/ đã hòa biển mặn... (Dưới mặt trời).

Biển xanh Tổ quốc giờ mặn mòi vì hàm chứa muối và máu - điều ấy không lạ. Vấn đề là có cách nói nào nói với hôm nay. Và điều Nguyễn Hoa liên tưởng rất thật và hiện đại nữa: “nếu chết là điều đáng sợ/ thì cô đơn còn đáng sợ hơn!/…/ vì đạn bom muốn cắt đi mọi tín hiệu của con người/ để chúng tôi chết bằng sự cô đơn trên đảo đá/.../ chiến tranh!.../ ngọn gió đen lồng trên đất nước tôi/... / và đá cháy.../ cháy cả bóng chúng tôi/ bóng đảo!”. Cái ngọn gió đen lồng khắp quê hương, bom đạn dội xuống cháy cả đá, cháy cả bóng người, cả bóng thiên nhiên ấy đặt người lính vào vị trí không gì thay thế nổi: “không tựa vào cái bóng của nhau/ để thắng giặc trời, giặc biển...”

Bằng hai câu hàm ngôn này, Nguyễn Hoa không chỉ nói lúc ấy mà còn dự báo tư cách mai sau. Chiều dài đường đi của người lính trường chinh thường cùng cả với gia đình mình. Hãy xem con gái viết cho bố những gì trong trang thư mỏng mảnh: “tóc con đã dài gần gấu áo/ bố đừng gửi vỏ sò, vỏ ốc/ mà bạn trai cười... Con thì “xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê”, nhưng bố thì nơi xa có biết đâu vì vẫn đang sống và chiến đấu cùng đồng đội mình cả người còn và người mất, mà nhất là người mất: “những bông hoa của đảo nở rộ tươi/ còn bao đồng đội tôi không thêm tuổi nữa rồi?/…/ để đảo đá này/ có một/ chỗ đứng/ dưới mặt trời”. Bài thơ này viết thời chiến tranh tại Hòn Mê và ghi năm 1980, tức là cảm xúc chiến tranh còn nóng hổi, giống như Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố, Thanh Thảo viết Những người đi tới biển, Nguyễn Trọng Tạo viết Con đường của những vì sao v.v...

Ở chiến trường biết hậu phương gian khổ nhưng đảm đang. Nguyễn Hoa có cách ví thật cô đọng: “Cầm liềm như mảnh trăng gầy mùa gặt/ đập lúa giữa nắng vàng mật ong/ hạt gạo tôi ăn biết lăn mình qua lửa” - (Đất nâu). Câu thơ “Hạt gạo tôi ăn biết lăn mình qua lửa” nói được một lẽ phải khi chính nghĩa thuộc về ta thì đến sản vật của thiên nhiên cũng chia sẻ cùng ta mà tôi luyện chất thép... Đấy là hôm qua mà có khi cũng cả bây giờ khi hàng giả, hàng nhập lậu, hàng của mình mà như không phải của mình tràn ngập thị trường, tràn cả vào ngóc ngách tâm hồn, không qua lửa liệu có cháy sáng được lòng người?

Nguyễn Hoa đã nối tiếp suy nghĩ ấy ở bài thơ “Những người đi về phía mặt trời”: “Xoè hai bàn tay/ chúng tôi nói đến mùa màng từng sốt ruột/ Rằng đất đai sẽ mọc làng, mọc phố…”. Không phải chúng ta duy nhất là chủ nhân, mà chính đất đai cũng là chủ thể. Đất mọc cây - đương nhiên rồi. Nhưng đất mọc làng mọc phố mới thuận nhiên nhi nhiên - thật đúng biết bao. “Chúng ta đang hoàn thiện/ tôi đang hoàn thiện/ bằng cách nào/ con người có hơn hai triệu năm hoàn thiện/ bao nhiêu thánh thần xuất hiện/ có cái gì giống cái đẹp vĩnh viễn/ cái đẹp chúng ta sáng tạo ra/ cái đẹp có cánh/ con người bay.../ cả chính chúng ta đã sinh bao ràng buộc này/ trật tự những ràng buộc/ trong thế giới đổi thay” (Dự cảm). Những câu thơ nhận thức từ sự thức ngộ trên dưới ba chục năm trước làm chúng ta giật mình về cách thức tiếp cận hôm nay.

“Máy bay rời đường băng, đang nâng độ cao/.../ tôi biết khát khao tuổi nhỏ bay lên/ sự hẫng hụt/ tôi chưa quen/.../ dưới tôi là bầu trời - mặt đất/ còn trên cao tôi lại cũng bầu trời” (Máy bay đang bay). Từ trạng thái bay cao thế năng ấy muốn bay xa động năng thì phải thế nào? “nhưng tôi lại nhớ/ các đài An Lộc, Pleiku, Đà Nẵng, Gia Lâm.../ đang giữ cho máy bay đúng hướng/ và cả những đồng đội tôi nằm lại Trường Sơn/ đang giữ cho máy bay đúng hướng” (Máy bay đang bay). Ồ, thì ra chân lý thật đơn giản. Nhưng mối liên hệ mặt đất - bầu trời lại sâu sắc biết bao!

Có một mảng chủ đề trong tập thơ này là nói về mối quan hệ quốc tế. Trong “Thư gửi những người cha nước Mỹ”, Nguyễn Hoa viết: “Anh và những người làm cha nay mai/ không muốn cho nó đi/ (Như bao đứa con của nước Mỹ không về)/ bởi có nó/ nguồn ánh sáng, nguồn sinh sôi/ niềm vui có cánh/ bởi nó có thật trên đời hơn tất cả Chúa trời, thần thánh/ bởi nó là máu ta, nó thay ta tồn tại trên đời/ có nó ta không chết đi như một sự tuyệt nòi”. Nhưng quan trọng hơn cái đạo lý tự nhiên ấy là một đạo lý nhân sinh: “Biết nói với các anh thế nào nữa/ từ cái năm sau Việt Nam/ chúng tôi yêu Jăc, yêu Jôn/ như các nhà thơ yêu trái đất như quả cam/ yêu con người đẹp/ bây giờ còn kịp/ những người cha, người mẹ của nước Mỹ/ chúng tôi/ phải chặn ngay những bàn tay đang cầm lửa để chơi/ ngôi nhà trái đất”.

Đấy, tiếng nói của nhà thơ là thế đấy. Trực diện chứ không vòng vo tam quốc, không ngọng nghịu ngây ngô.

Thơ có thể nói được như vậy vì thơ đã nhân danh người lính bảo vệ nhân dân, giải phóng Tổ quốc, gìn giữ - bình yên mà phát biểu. “Tôi biết người là ai/ màu áo lá xanh ngời Tổ quốc/ màu áo lá cho tôi nhận được/ người là bạn thật của đất đai” (Bạn của đất đai). “Với các anh - những người tình nguyện/ tôi muốn đi từ phía đau này/ phía đau của những người cực tốt/ đến cứu nỗi đau của những con người!” (Như thế, bắt đầu từ mùa khô 79).

Có lẽ bây giờ khi thế giới không ngày nào không có chiến tranh chết chóc, không ngày nào thiếu hình ảnh liên quân Liên Hợp Quốc, NATO, không ngày nào không nhắc đến Bắc Phi, Trung Đông thì câu thơ Nguyễn Hoa về màu áo lính “bạn thật” và “cực tốt” mới giá trị làm sao. Ngay từ những năm 79-80 ấy, Nguyễn Hoa đã gửi gắm những câu thơ về anh bộ đội Cụ Hồ, về nhân dân, về Tổ Quốc vẹn nguyên lý tưởng và niềm tin vào giá trị văn hóa giống nòi: “tôi đã viết bài thơ của những chiếc áo xanh/ năm chia ly xa cách/ mẹ sống bằng nỗi nhớ - không thể nào hóa đá/ cô gái sống bằng niềm tin - người chiến thắng trở về” (Gửi năm tôi 53 tuổi - năm 2000); “chúng tôi thực hiểu từ nay/ về nhu cầu tồn tại/ ở ăn và mặc/ để sống và nảy sinh/ về nhu cầu nhận thức được mình/ sau con Mẹ là con Nhân dân là con Tổ quốc/ còn chiều nay tôi uống bát nước/ các bạn cho/ làm ước mơ tôi khỏi khát/ tôi có thể nào dám quên trôi!” (Con Tổ quốc). Còn có cách thể hiện tình cảm nào thực và đẹp hơn cái ước mơ khỏi khát trong nghĩa bạn bè.

Có một bài thơ mà giọng và ngôn từ thể hiện của Nguyễn Hoa rất gần với các nhà thơ thành danh cuối những năm 80 thế kỷ trước như Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Linh Khiếu,... sau này anh chuyển vào thơ ngắn ở tập Mùa xuân không bị bỏ quên in năm 2000 Ánh mắt tươi in năm 2005. Đó là bài Mẹ: “Mẹ ơi/ mẹ mặc áo nâu sồng thêm trẻ/ con mặc áo nâu sồng tốt tươi/ lúa đầy tay mẹ/ quyển vở mát tay con/ làng mở sang trang/ mẹ gọi/ làng ơi./ long lanh giọt nước mắt tràn” (Mẹ). Xin dẫn ra đây hai bài để thấy rõ sự định hình của một thi pháp hiện thực tự cảm mà Nguyễn Hoa dùng: “Mưa rây rây in trời Bắc Kinh/ Cô gái tươi đường lên Trường Thành/ Mắt và cười thay nói/ Chơi vơi mái gió chênh vênh/ Ngăn cách xưa vượt mấy giờ bay/ Nam trong nhau bắc Trường Thành này/ Vô hảo hán tình nhân lai khách/ Cô gái mát lành trời lưng mây” (Với Trường Thành) - Đây là một bài thơ tình sáng tác năm 1998 - Chỉ tình với nhau là đã có thể làm được mọi cách. “Thông đứng/ Gió khơi/ Em sóng.../ Bến nghiêng/ Vi vút/ Anh cao!” (Bến Nghiêng) - Cũng là một bài thơ tình sáng tác năm 2003, nhưng có một phát hiện thú vị. Mượn địa danh để nói sự nghiêng ngả vì sóng em - lẽ ra phải kéo thấp xuống hoặc làm dài ra để bớt nghiêng thì thật bất ngờ Nguyễn Hoa lại “anh cao” - Kiệm lời mà đủ ý rõ tứ lại phát ý ngoài lời. Thì ra dài và ngắn với thơ chưa bao giờ là một chuẩn mực khe khắt.

Tôi được sung sướng mà cùng thơ viết “về tình yêu/ hoàng hôn chiều/ bàn tay trong bàn tay run rẩy/ và nụ hôn sáng lên lấp láy/ có thể là mắt, có thể là sao/ ấm áp nhau/ vì nhau/ tồn tại!”; “và tôi nghe trong bình minh tơ non/ tiếng gà cúc cu gáy gọi/ ngày mới- ngày mới- ngày mới!” (Dự cảm).

Những câu thơ ấy viết năm 1984 cách bây giờ gần ba chục năm làm tôi thanh thoát hẳn lên khi nghĩ và đi cùng lớp cha anh - đấy là những câu thơ tin tưởng!

B.V.K
(SH274/12-11)









Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.