Tuy đã được duy trì và phát triển qua cả nghìn năm, nhưng ngày nay, các tài liệu lịch sử về các giá trị di sản phi vật thể không còn nhiều, lại phân bố ở nhiều nơi, không có một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống... Nhìn chung, các giá trị di sản Phi vật thể của Huế đã bộc lộ những hạn chế về mặt tư liệu. 1.2. Việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể nhằm thu hút khách du lịch không phải chỉ dựa vào trí tuệ một cá nhân, một tập thể, cũng không phải là công việc một sớm một chiều, mà phải có sự nỗ lực của các nhà khoa học, các nghệ nhân, nghệ sĩ, các nhà quản lý và của tất cả mọi người. Một trong những vấn đề then chốt là phải tiến hành điều tra các giá trị văn hóa liên quan đến Huế, tổ chức các cuộc hội thảo để tìm giải pháp… Vậy, làm thế nào để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản phi vật thể của Huế trong việc thu hút khách du lịch là một vấn đề cần được xem xét trong bối cảnh hiện nay. 1.3. Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc Việt Nam đã được UNESCO ghi tên vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Năm 2008, Nhã nhạc được UNESCO đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi Vật thể Đại diện của nhân loại. Vì thế, nhiều dự án và đề tài nghiên cứu nhằm phục hồi và phát huy giá trị di sản đã được hình thành. Đặc biệt, sự tài trợ của Dự án quốc gia về bảo tồn nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009 với tổng mức kinh phí khoảng 350.000 USD, trong đó Quỹ ủy thác Nhật Bản tài trợ thông qua UNESCO gần 155.000 USD, số còn lại là vốn đối ứng từ phía Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn loại hình âm nhạc bác học này. Sau 5 năm thực hiện, dự án đã phục dựng thành công Thái Bình Cổ Nhạc và phục chế một số nhạc cụ âm nhạc cung đình; hoàn thành bước đầu một số hồ sơ khoa học về nhạc cụ, nhạc khí; thành lập phòng lưu trữ về Nhã nhạc, sưu tầm hơn 1.000 trang tư liệu - thư tịch về Nhã nhạc, âm nhạc truyền thống và cung đình. Đồng thời, dự án đã đào tạo được 20 nhạc công một cách bài bản. Những người này thường xuyên biểu diễn phục vụ du khách tại Nhà hát Duyệt Thị Đường. Đây chính là cơ sở để khách du lịch biết và hiểu hơn về những giá trị di sản phi vật thể của Huế. II. Du lịch Huế và du khách với việc tiếp cận nghệ thuật diễn xướng cung đình 2.1. Du lịch Huế “So với phương Tây, hoạt động du lịch và nhất là tổ chức của ngành du lịch ở phương Đông ra đời muộn hơn nhiều. Ở Việt Nam nói chung, ở Thừa Thiên Huế nói riêng, hoạt động du lịch cũng chỉ mới manh nha sau khi theo bước chân xâm lược của người Pháp đến nước ta vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, và tổ chức du lịch được hình thành một cách chính thức sau khi thực dân Pháp thiết lập xong nền đô hộ trên toàn cõi Đông Dương vào những năm đầu thế kỷ XX”(1). Guide de l’ Annam - cuốn sách giới thiệu và tuyên truyền chính thức về Trung kỳ nói chung và Huế nói riêng của tác giả Philippe Eberhardt viết rằng: “Nay là lúc các du khách bắt đầu tăng lên mỗi năm một nhiều trên các chuyến tàu đi Viễn Đông, cần làm ra những sách hướng dẫn để họ đến tham quan thuộc địa của chúng ta bằng những phương cách tiện lợi nhất, và chỉ trong một thời gian hạn chế, nhưng thu được những hiểu biết chính xác và rõ ràng về cả phương diện lịch sử và kinh tế lẫn vẻ đẹp của các phong cảnh”(2). Tuy vậy, ngày 9/3/1945, các tổ chức và hoạt động du lịch của chính quyền Pháp ở Huế cũng đã bị giải thể sau khi xảy ra cuộc binh biến của quân đội Nhật tại Đông Dương. Hiện nay, theo thống kê chưa chính thức của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, Huế có khoảng hơn 50 trung tâm lữ hành, nhưng làm thế nào để Huế có sức thu hút mạnh mẽ đối với khách du lịch vẫn là một điều nan giải. Trong Hội nghị của ngành du lịch được tổ chức gần đây, số lượt khách đến Huế hàng năm vẫn tăng đều, cụ thể như sau: năm 2006 gồm 1,1 triệu lượt khách, năm 2007 là 1,5 triệu lượt khách và các năm kế tiếp đều tăng đều từ 18% đến 20%. Tuy nhiên, ngày lưu trú của mỗi du khách khi đến Huế chỉ là 01 đến 02 ngày. Con số này còn quá khiêm tốn so với phố cổ Hội An, chứ chưa nói đến các nước lân cận. Huế đang nắm giữ hai giá trị di sản văn hóa bao gồm: Quần thể di tích cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình. Như vậy trên thực tế, khi đến Huế du lịch, ngoài thưởng thức các danh lam thắng cảnh, thưởng thức các món ẩm thực, thì việc tìm hiểu về giá trị văn hóa của hai di sản này theo ước tính cũng phải mất từ 04 đến 05 ngày đối với mỗi một du khách. Thế thì tại sao du khách chỉ lưu trú chỉ 01 đến 02 ngày? Ông Trịnh Quang Thang - Đại diện Công ty du lịch Việt Nam đã phát biểu khi nói về du lịch Huế: “Đây là mảnh đất của huyền thoại, đi đâu cũng gặp huyền thoại. Nhưng hai, ba chục năm rồi, sông vẫn vậy, núi vẫn vậy, biển vẫn vậy, chúng ta vẫn chỉ khai thác những cái mình có. Nhiều người chưa đến Huế hoặc chỉ đến Huế một lần là vì Huế thiếu đột phá, vẫn chỉ thành nội, lăng tẩm, ca Huế… Tôi coi Huế là thánh địa của du lịch, nhưng thánh địa này ảm đạm quá”. Ông Nguyễn Ngọc Thiện - Nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cũng thừa nhận: du lịch Huế chưa phát triển đúng với tiềm năng. Có thể nói, du khách đang “quay lưng” lại trên truyền hình trong nước cũng như nước ngoài… Ngoài ra, chúng ta cần phải hướng cho du khách hiểu hơn về các giá trị di sản văn hóa của Huế khi họ có điều kiện tiếp cận. Để làm được điều đó, Huế cần phải có những hướng dẫn viên có tâm với nghề, am hiểu thật sự về các giá trị văn hóa của Huế vì hướng dẫn viên chính là cầu nối để truyền cảm hứng cho du khách khi họ muốn khám phá các giá trị di sản văn hóa của Huế… 2.2. Du khách với việc tiếp cận nghệ thuật diễn xướng cung đình Năm 1993, Quần thể Di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới và 10 năm sau (năm 2003), Nhã nhạc - một loại hình diễn xướng cung đình đã được UNESCO ghi tên vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Như vậy, Huế đang nắm giữ trong mình hai giá trị di sản, trong đó Nhã nhạc được xem là một “điểm nhấn”; và đã có nhiều dự án mang tính bảo tồn và phát huy Nhã nhạc nhằm giới thiệu loại hình nghệ thuật này đến với du khách. Đây cũng là một hình thức giúp du khách tiếp cận dần với các giá trị di sản phi vật thể của Huế. Trong bài, Sau hơn nửa thế kỷ Duyệt Thị Đường lại sáng đèn, nhà báo Kim Oanh đã viết: “Đã hơn 10 giờ đêm. Đại Nội bắt đầu vắng vì tất cả các xuất diễn tại đây trong chương trình Festival Huế 2002 đã vãn. Thế nhưng, ở Nhà hát Duyệt Thị Đường, khán giả vẫn nán lại cho đến phút chót, ngồi chật kín cả tầng trệt. Một khán giả đã lớn tuổi ở phường Phú Cát với nghề trồng rau đã bỏ ra 70.000 đồng chỉ để vào xem chương trình Nhã nhạc Huế tại Duyệt Thị Đường. Cụ bảo: vốn rất mê ca Huế và Nhã nhạc, hễ khi nào có điều kiện, cụ lại đi xem. Nhưng được nghe những giai điệu réo rắt vừa buồn, vừa giục giã, níu kéo của những nhạc cụ tam, tỳ, nhị, nguyệt… làm nên Nhã nhạc cung đình Huế thì đây lại là lần đầu”(3). Ngày 6/6/2006, lần đầu tiên một buổi giao lưu âm nhạc cung đình của ba nước đồng văn như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc trong chương trình đêm Hoàng cung được tổ chức tại Đại Nội - Huế. Từ trước đến nay, nhiều du khách nước ngoài chỉ có điều kiện để tiếp xúc với Nhã nhạc Nhật Bản, nay qua buổi giao lưu này họ cũng đã ngạc nhiên vì các giá trị của Nhã nhạc đã được bảo tồn, phục dựng để biểu diễn phục vụ dân chúng, phục vụ du khách quốc tế. Cuối năm 2009, trong cuộc họp tổng kết của Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống cung đình Huế (NHNTTTCĐ Huế) thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế - đơn vị trực tiếp bảo tồn, biểu diễn, giới thiệu đến du khách các giá trị di sản của Nhã nhạc và Ca múa cung đình đã thống kê, hàng năm nhà hát đã biểu diễn từ 1500 - 2000 suất, đón hàng chục ngàn lượt khách trong và ngoài nước, và tổng doanh thu từ năm 2006 - 2009 là hơn 6 tỷ đồng. Thông qua việc thống kê các suất biểu diễn, doanh thu của NHNTTTCĐ Huế và những câu chuyện mà chúng tôi vừa nêu ra, chúng ta có thể thấy rằng, du khách và người dân vẫn đang quan tâm và mong muốn tiếp cận để tìm hiểu về những giá trị nghệ thuật của chốn cung đình xưa, nhưng hiện nay chỉ có NHNTTTCĐ Huế là đơn vị duy nhất biểu diễn tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại Nội) với giá vé từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng để phục vụ cho những ai biết và tìm đến với những giá trị của di sản phi vật thể mà thôi. Đây cũng là mặt trái của vấn đề, bởi cũng có nhiều khách du lịch, nhiều người dân không biết đến sự hồi sinh của loại hình nghệ thuật này, hoặc biết nhưng chưa có điều kiện để xem và tìm hiểu về những giá trị di sản quý báu mà cha ông chúng ta để lại. III. Một số đề xuất để du khách và người dân có cơ hội tiếp cận với loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình 1. Để những giá trị di sản phi vật thể của Huế vẫn giữ được những lợi thế trong việc phát triển du lịch, Huế cần có một Hội nghị bàn tròn giữa các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, các nhà cung cấp dịch vụ du lịch như lữ hành, khách sạn, vận chuyển du lịch… nhằm tìm ra một giải pháp toàn diện và mới mẻ về việc quảng bá hình ảnh của các loại hình diễn xướng cung đình trong việc phát triển du lịch của Huế. 2. Cần có chính sách đãi ngộ đối với những nghệ nhân, nghệ sĩ, và xây dựng chiến lược lâu dài để nghệ thuật diễn xướng cung đình có thể phục vụ du khách và người dân mà không phụ thuộc vào kinh tế. 3. Trong quá trình bảo tồn và phát huy, chúng ta cần phải chú ý đến tính nguyên bản để người thưởng thức không hiểu sai về loại hình di sản. Chúng tôi đề cập đến vấn đề này, bởi hiện nay, các loại hình nghệ thuật của diễn xướng cung đình Huế đang có nhiều dị bản, và các trung tâm lữ hành, khách sạn khi phục vụ theo nhu cầu của du khách chỉ chú ý tới giá cả hợp đồng của các suất diễn, chứ không hề quan tâm đến chất lượng của nghệ thuật. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến loại hình nghệ thuật diễn xướng của cung đình Huế nhàm chán và “rẻ tiền” trong mắt du khách. 4. Tiền nhân của chúng ta đã để lại một nền nghệ thuật đồ sộ, nhưng cũng để lại rất ít sách, vở và tư liệu để hậu thế nghiên cứu nhằm khôi phục lại vốn cổ của tiền nhân. Chính vì vậy, khi nghiên cứu và bảo tồn các giá trị di sản của nghệ thuật diễn xướng cung đình, trong đó có việc đưa loại hình nghệ thuật này vào các tour, tuyến du lịch để giới thiệu với du khách, chúng ta cần phải tư duy và hướng cho du khách biết đâu là giá trị đích thực của loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đích mà Huế đang nắm giữ. TRỌNG BÌNH (262/12-10) --------------- (1) Phan Thuận An, Du lịch Huế thời Pháp thuộc, Di sản văn hóa Huế Nghiên cứu và bảo tồn, do Trung tâm BTDT Cố đô Huế ấn hành, tr.383. (2) Philippe Eberhardt, Guide de l’ Annam (Hướng dẫn du lịch Trung Kỳ), Nxb.Augustin Challamel, Pari,tr.7. (3) Kim Oanh, Sau hơn nữa thế kỷ Duyệt Thị Đường lại sáng đèn. Di sản văn hóa Huế 20 năm bảo tồn và phát huy giá trị, do Trung tâm BTDT Cố đô Huế ấn hành, tr.560. |
Câu hỏi khá táo bạo, tương tự như khi người ta tính chuyện bứng một gốc cây cổ thụ ngàn năm, rễ của nó đã lan rộng cả dải đất hình chữ S, tán của nó xòe cả bầu trời vùng biển đông, toan ngắt cành ngắt lá đem trồng đi chỗ khác, hoặc chừng như muốn xem bói một quẻ nhờ vào lời thần thánh hoặc tìm nhà bác học phán cho một câu điều chỉnh. Tôi thì tôi không dám nói chuyện điều chỉnh – hai chữ rất thời thượng của thời… hậu cách mạng bứng gốc, nay bớt lại chỉ điều chỉnh thôi nhưng điều chỉnh cái gì, ai điều chỉnh?
Trong xã hội dịch chuyển, Tết với mỗi thế hệ mang giá trị, ý nghĩa khác nhau. Nếu nhiều gia đình trẻ có thể đóng cửa dắt nhau đi du lịch, đón và chơi Tết ở một nơi xa thì với không ít người cao tuổi, ngày Tết vẫn mang giá trị truyền thống bất biến. Tuy nhiên, một điều chung nhất dễ nhận thấy, đó là trong tâm thức mỗi người Việt luôn trân trọng những giá trị linh thiêng ngày Tết cổ truyền.
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 5/4/2016 đã ban hành Luật Báo chí - văn bản pháp lý quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, tổ chức và hoạt động báo chí, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí, quản lý nhà nước về báo chí.
Tính đến hết năm 2018, tỉnh Quảng Nam có 379 di tích các loại, phần lớn hư hại xuống cấp do thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết khắc nghiệt...
ĐẶNG PHÚC
Phía sau những mẫu quảng cáo “cho vay lãi thấp, không cần thế chấp, thủ tục đơn giản, nhanh gọn”, hoạt động “tín dụng đen” đang biến tướng khắp mọi nơi, gây ra nhiều hệ lụy khôn lường cho xã hội. Không dừng lại ở đó, “tín dụng đen” khi núp bóng dưới hình thức công ty dịch vụ tài chính, đang thao túng nhiều phận đời, khiến họ lao đao.
Vừa qua tại Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, Hà Nội đã diễn ra hội thảo: “Phim như một di sản văn hoá” do Hội đồng Anh phối hợp với Viện Phim Việt Nam tổ chức. Với nội dung tương lai nào cho việc lưu trữ phim Việt Nam, đặc biệt từ góc nhìn phim tài liệu– một di sản văn hoá của nước nhà.
Tại lễ tổng kết năm 2018, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam vui mừng thông báo: Kinh phí cho các cấp hội và văn nghệ sĩ vẫn được Nhà nước hỗ trợ.
Trong những năm qua, du lịch cộng đồng (DLCĐ) đã đem đến nhiều tác động tích cực cho xã hội, mang lại các lợi ích về văn hóa, kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, do chưa có chiến lược phát triển bài bản, các mô hình du lịch cộng đồng ở Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ với chất lượng phục vụ chưa cao.
Nền tảng để xây dựng một xã hội hài hòa, chia sẻ và nhân ái là sự bình đẳng. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều câu chuyện về sự bất bình đẳng trong xã hội mà nhiếp ảnh vừa là công cụ vừa là không gian để các câu chuyện được kể lên một cách chân thật và truyền cảm hứng nhất.
Trong lịch sử, chưa bao giờ Việt Nam có đội ngũ những người làm lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật chuyên nghiệp như hiện nay, đóng góp các công trình nghiên cứu mỹ thuật từ giai đoạn cổ đến hiện đại một cách dày dặn, liên tục và xuyên suốt. Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực cho ngành lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật đang đứng trước nhiều khó khăn.
Trong sự phát triển chung của văn học nghệ thuật (VHNT), lực lượng nghệ sĩ trẻ, nghiên cứu trẻ đang đóng một vai trò rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Thế nhưng, với các loại hình VHNT truyền thống, dân gian vai trò của những người trẻ hiện nay đang khá mờ nhạt bởi sự chi phối của xã hội.
Việt Nam có 443 mạng xã hội do các danh nghiệp trong nước cung cấp dịch vụ, được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cấp phép hoạt động, tuy nhiên, số người tham gia sử dụng không cao.
Đó là khi cảm xúc bỗng chộn rộn, thôi thúc bàn tay cầm cây bút viết nên một đôi câu thơ, dạo vài khúc nhạc hay cọ vẽ những mảng màu. Đó là khi, những văn nghệ sĩ được người đời mến mộ, hẹn nhau làm nên một ấn phẩm ngày Tết. Để ra giêng ngày rộng tháng dài, ai đó sẽ giở cuốn sách thơm mùi mực, nhẩn nha nhấm nháp phong vị ngày xuân…
Một đất nước không có nghệ thuật giống như con người không có tâm hồn, nhưng nghệ thuật ấy mà đóng đinh một chỗ thì chẳng khác nào một tâm hồn cằn khô. Rất may, nhiều nghệ sĩ vẫn miệt mài lao động và chuyển mình sáng tạo.
“Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải là những con người nói theo khuôn, làm theo mẫu như thực tế đã và đang diễn ra”, Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi nêu ý kiến.
Nhiều chính sách về đào tạo giáo viên sư phạm, các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho người học âm nhạc dân tộc, các cải cách và những quyết định xây dựng chương trình mới đưa âm nhạc vào giảng dạy tại bậc Trung học phổ thông là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của giáo dục âm nhạc nói riêng và sự nghiệp giáo dục đào tạo con người nói chung.
Những năm gần đây, vi phạm bản quyền âm nhạc luôn là một vấn đề làm “nóng” dư luận.
Những năm qua, vấn đề quản lý và bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan được nhà nước đặc biệt quan tâm và thực thi một cách tích cực. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan ở lĩnh vực âm nhạc vẫn liên tục xảy ra các sai phạm với nhiều hình thức và mức độ phức tạp.
Trong những năm gần đây, vi phạm bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật đã trở thành một “vấn nạn” làm đau đầu các cơ quan quản lý. Mặc dù đã có những chế tài xử phạt nhưng dường như đây vẫn chưa thực sự là những liều thuốc “đặc trị” để xử lý các vi phạm.
Như đã đưa tin, từ ngày 1 đến 5/11, Liên hoan Ca trù toàn quốc 2018 sẽ diễn ra tại Hà Tĩnh với sự tham gia của 13 tỉnh, thành có di sản ca trù. Với tư cách là Tổng đạo diễn của sự kiện này, nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan đã có những chia sẻ.