Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh

10:55 26/11/2008
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

Nếu quyết tâm ấy không thành máu thịt trong quan niệm chính trị cụ thể của mỗi người thì chúng ta sẽ không thể hy vọng cứu vãn được một thứ đã gần như hư nát mất rồi trong mỗi chúng ta: phẩm giá con người”. Cái sự thật thực tại H.Pinter đang nói đến: đó chính là sự thật về cuộc chiến tranh của Mỹ tại hiện nay.

Chiến tranh - cho đến nay, vẫn là một đề tài lớn, mang tầm vóc nhân loại. Nó  từng có bề dài và bề dày trong tiến trình của lịch sử văn học thế giới. Chiến tranh âm vang trong bản trường ca Iliade, Odissée của Homère, trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hòa bình của Tolstoi... Và gần hơn, trong Chuông nguyện hồn ai của Hemingway, trong Cái trống thiếc của Gunter Grass (tác phẩm văn học Đức đoạt giải Nobel năm 1999) và vô số tác phẩm khác... Ở Việt , chiến tranh  vẫn là đề tài có tính thời sự vì nó gắn liền với số phận đau thương của dân tộc... Chiến tranh như một nỗi ám ảnh, một vết thương rỉ máu, khó lành... Đặc biệt, đề tài hậu chiến, đã có sức hút, sức hấp dẫn đối với những nhà văn mặc áo lính.

2. Cùng với hàng loạt các vấn đề đổi mới trong văn học (kể từ sau 1986), chiến tranh và thân phận con người trong chiến tranh đã được nhìn nhận lại. Chiến tranh được soi chiếu ở nhiều chiều, nhất là ở những mặt trái, những vùng khuất lấp... Các tác phẩm của Chu Lai, Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân... và đặc biệt là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ra đời, cho thấy một cách nhìn mới về đề tài này.
Là những người trong cuộc, nói về vấn đề trong cuộc, nên nhân vật của những nhà văn nói trên giàu sức trải nghiệm và thể nghiệm. Lùi xa 30 năm, chiến tranh vẫn hiện lên một cách chân thực và sinh động. Có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ, chiến tranh được đề cập một cách thẳng thắn và nhiều góc cạnh như trong tác phẩm này. Không phải ngẫu nhiên mà Nỗi buồn chiến tranh đã trở thành một vụ scandal trong văn học những thập niên 80, 90... Nhiều người dè chừng với Bảo Ninh nhưng lại ngấm ngầm khẳng định: Nỗi buồn chiến tranh. Tác phẩm này đã gây nhiều luồng tiếp nhận ngược chiều. Một số cho rằng: Nỗi buồn chiến tranh bi đát và bế tắc. Số khác cho rằng, Bảo Ninh, từ góc nhìn người lính đã phơi bày những sự thật trần trụi... Nỗi buồn chiến tranh cũng chính là nỗi đau về thân phận con người.

Theo tôi, thành công của Bảo Ninh không chỉ là tính chân thực, ở cách nhìn mới về chiến tranh mà còn ở cách cảm thụ, cách cắt nghĩa và lý giải mới về đề tài này. Nỗi buồn chiến tranh vì vậy, không chỉ bộc lộ ở chiều sâu tư tưởng mà còn ở chiều sâu nghệ thuật. Ngay cái nhan đề cũng là một tín hiệu nghệ thuật: Đó là nỗi đau, nỗi mất mát, nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính về sự tàn khốc của chiến tranh. Lớn hơn nỗi đau về thể xác, đó là nỗi đau về tinh thần, điều mà chúng ta gọi là “hội chứng chiến tranh”.
Ở một mặt nào đó, Kiên - nhân vật chính trong tác phẩm là một “con bệnh tâm thần”. Kiên mắc “hội chứng chiến tranh”. Bước ra từ cuộc chiến, Kiên chưa hết bàng hoàng về sự thảm khốc, thì phải đối diện ngay với những mặt trái của xã hội Việt thời hậu chiến. Vì thế, Kiên là một kiểu bi kịch về hình tượng người lính trong và sau chiến tranh. Tôi nói là một kiểu, vì không phải người lính nào sau chiến tranh cũng như Kiên. Họ có những kiểu hòa nhập vào thực tại khác nhau.

3. Chọn Kiên - hình tượng người lính - người trong cuộc làm nhân vật trung tâm tác phẩm, Bảo Ninh đã mở ra nhiều trường diện để người đọc có dịp đối mặt với hiện thực khắc nghiệt này.
Nhân vật Kiên được tác giả “dồn” vào nhiều vai và “đặt” vào nhiều góc nhìn khác nhau. Kiên - vừa là nhân vật chính, vừa là hình tượng trần thuật trong tác phẩm. Tính chất tự sựtự truyện này đã giúp Bảo Ninh thể hiện một cách táo bạo quan điểm nghệ thuật của mình. Qua nhân vật Kiên, người đọc bắt gặp vô số  định nghĩa về chiến tranh: “Chiến tranh là bài ca kinh hoàng, là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại..., là thế giới bạt sầu, thế giới vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người..”. “Chiến tranh có thể làm cho con người điên lên hoặc chết rũ ra vì khiếp sợ”, “Chiến tranh là lửa, là máu, là cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá” (1)...

 Là một nhà văn trong cuộc, một nhân chứng bước ra từ cuộc chiến, Bảo Ninh không nhìn chiến tranh bằng những tấm huân chương, những bản anh hùng ca... Chiến tranh hiện lên trong tác phẩm với tất cả sự tàn khốc, sự bi thảm, sự ghê rợn... Nó không chỉ là bi tráng, bi hùng mà còn là bi thảm... Tất cả những gì khốc liệt nhất, đau thương, tăm tối nhất của chiến tranh đều được Bảo Ninh phơi bày một cách trần trụi qua Nỗi buồn chiến tranh. Đó là cảnh chết chóc, cảnh đói rét: “... Mùa thu não nề, lê thê, ê ẩm... khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết máu, vì quần áo bục nát tả tơi và những lở loét khắp người như phong hủi, cả trung đoàn chẳng còn ai ra hồn. Mặt mày ai nấy như lên rêu, ủ dột, yếm thế, đời sống mục ra”... Rồi “bệnh đào ngũ tràn lan khắp trung đội, chẳng khác nào những cơn ói mửa, không thể chắn giữ, ngăn bắt nổi...”.

Sự tăm tối của chiến tranh còn được khắc đậm thêm ở sự huyền bí, man rợ của núi rừng. Núi rừng hoang vắng, huyền bí như đồng lõa với cuộc chiến tàn khốc... Bút pháp đặc tả cộng với những chi tiết đắc địa, khiến cho Nỗi buồn chiến tranh có những tác động kép, những thông điệp đa tầng, nhiều chiều về chiến tranh. Có thể dẫn ra ba chi tiết sau trong tác phẩm để minh định cho điều đó.

- Chi tiết 1: Đó là hình ảnh người - vượn,  mà người lính đã bắn nhầm: “khi ngã ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược... Cả trung đội thất kinh, rú lên, ù té, quẳng tiệt nồi niêu, dao kéo...”.
- Chi tiết 2: Đó là hình ảnh hoa hồng ma - một loài hoa ưa hút máu người tử trận nên hoa rất thơm. Và đến lượt các đồng đội của những người tử trận còn sống sót, lại thích ngửi, say hút hoa hồng ma: “chỉ sau vài hơi rất mạnh là đã lặng lẽ xiêu lịm đi như tà khói mong mênh. Có thể nhờ khói hoa hồng ma mà quên mọi nông nổi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai... Đồng đội của Kiên mỗi người mỗi kiểu say sưa, mơ màng, trong khói hồng ma”...
- Chi tiết 3: Đó là tiếng hú: vô số đoạn văn tác giả khắc họa các sắc thái khác nhau của tiếng hú: Tiếng hú ghê rợn của núi rừng hoang vắng, huyền bí, thâm u, tiếng gọi bạn tình của muông thú hay tiếng hú dài của những bóng ma, điệp trong tiếng cười điên dại... Tiếng hú này được tái hiện qua giấc mơ, qua những ảo giác điên loạn, vụt hiện của Kiên nên càng trở nên ghê rợn, man rợ.

Ba chi tiết trên là những ẩn ý nghệ thuật tuyệt vời của Bảo Ninh. Nó là những tín hiệu nghệ thuật tham gia vào cấu trúc văn bản để giúp tác giả chuyển tải thành công những bức thông điệp về chiến tranh. Và tôi nghĩ, chỉ dừng lại ba chi tiết trên cũng có thể giải mã được vô số tầng ngầm ẩn chìm trong tác phẩm... (Ở bản tham luận này, người viết không có điều kiện đi sâu).

4. Đặt Kiên - nhân vật trung tâm trong cái nhìn đa chiều, Bảo Ninh đã xây dựng thành công bi kịch người lính. Bước ra từ cuộc chiến, Kiên lại đối mặt với những phũ phàng mới của thời hậu chiến, những mặt trái của  xã hội - điều mà Kiên gọi là “tấn trò đời: Phương - người yêu của Kiên - một mối tình trinh trắng, đắm say... đẹp như một bài thơ giờ trở thành tan nát - đau như một vết thương lòng. Phương trở thành một gái điếm, một ca kỹ. Rồi em gái của một đồng đội đã hy sinh cũng trở thành một gái điếm, đói rách khốn khổ, bị ruồng rẫy... Rồi những đồng đội khác đều mang thương tật, mặc cảm với hòa bình... Không phải không có lý khi nhiều người cho rằng Bảo Ninh bi quan, bế tắc, khi tác giả đã để cho nhân vật của mình phát ngôn như sau:

- “Hừ, hòa bình, mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là một thứ cây mọc lên từ máu thịt bao nhiêu anh em mình, để chừa lại chút xương... nền hòa bình này, tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết... Mặt thật bày ra gớm chết”.
 Như trên đã nói, Kiên là kiểu nhân vật “bệnh lý” - một “di chứng của thời đại trước”. Với Kiên: “Tương lai đã nằm lại ở phía xa rồi... Kiên có cảm giác không phải mình đang sống mà đang mắc kẹt ở trên cõi đời nay”. Bi kịch của người lính sau chiến tranh là chỗ đó. Ở chỗ, họ không thể dung hòa với thực tại. Cuối tác phẩm hai nhân vật chính Kiên và Phương đều bỏ đi, mỗi nhân vật là mỗi kiểu chối bỏ thực tại... Vậy bức thông điệp của Nỗi buồn chiến tranh là gì, nếu không phải đó chính là sự phản ứng của Bảo Ninh đối với những mặt trái của xã hội Việt sau chiến tranh? Tính chân thực của tác phẩm là ở đó.

5. Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã vượt lên một số nhà văn cùng thời về kỹ thuật tiểu thuyết... Nỗi buồn chiến tranh đã chứng tỏ một cây bút tiểu thuyết sắc sảo, có chiều sâu. Trong tác phẩm này, người đọc bắt gặp kiểu nhân vật Bệnh lý của Dostoievski, thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức của Faulkner, bút pháp gián ghép điện ảnh của M.Duras... Nhưng, thủ pháp đậm đặc nhất trong Nỗi buồn chiến tranh là thủ pháp độc thoại nội tâm. Thủ pháp này chi phối hàng loạt các vấn đề xử lý nghệ thuật trong văn bản... Các phương thức lưu chuyển, dồn nén, kéo căng không - thời gian và đặc biệt kiểu kết cấu phi logich đều tuân thủ nguyên tắc nghệ thuật này.

Toàn bộ tác phẩm được tái hiện qua dòng kí ức của nhân vật Kiên. Những mảng kí ức lộn xộn, lắp ghép, đan xen, bấn loạn... Tất cả ùa về, ứ đầy, đông cứng, nghẹn tắc trong thế giới nội tâm nhân vật. Nhân vật dường như không tồn tại trong không thời gian thực, cuộc sống của Kiên đã dồn vào quá khứ, bị quá khứ chiến tranh níu giữ, bào mòn, gặm nhấm... Nó ám ảnh Kiên trong giấc mơ, trong những trang viết, trong sự bấn loạn của trực giác, vô thức của những cơn thần kinh kích động. Trong tâm thức của Kiên luôn ứ đầy những địa danh thảm khốc của cuộc chiến: đó là Truông gọi hồn, Đồi xáo thịt, là những nghĩa địa dày đặc với những bóng ma, những tiếng cười, tiếng hú ghê rợn, man rợ...
Với kỹ thuật đồng hiện thời gian, gắn với thủ pháp gián ghép điện ảnh: đan xen những mảng màu tối sáng, những cơn mê sảng, thức tỉnh của nhân vật, tác giả đã đưa người đọc vào những màn sương mù, những cơn thác loạn của ký ức chiến tranh. Chọn kiểu nhân vật “bệnh lý” và đặt nhân vật vào những “mê trận” ký ức đó, Bảo Ninh đã soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau: Đó là con người vô thức và hữu thức, tâm hồn và thể xác, bản năng và tâm linh... Giá trị nhân bản của tác phẩm chính là cái nhìn chân thực, đa chiều này.

6. Theo tôi, một cuốn tiểu thuyết thú vị, là cuốn tiểu thuyết tạo sự khiêu khích và có khả năng đối thoại với bạn đọc. Nỗi buồn chiến tranh có thể xem là một tác phẩm như vậy. Tính chất đa âm, đa tầng của nó đã tạo ra vô số thông điệp về con người và cuộc sống. Đặc biệt, Nỗi buồn chiến tranh đã xoáy sâu vào người đọc nỗi day dứt về thân phận con người trong chiến tranh. Lớn hơn thế, đó là bức thông điệp đối với toàn nhân loại: Chiến tranh dù chính nghĩa hay phi nghĩa cũng gây nên mất mát, đau thương.
Giá như, Bảo Ninh tinh tường và cao tay hơn nữa ở đoạn kết, chắc Nỗi buồn chiến tranh còn đi xa hơn. Cuối tác phẩm, nhân vật tôi - nhà văn, người chép lại toàn bộ bản thảo của Kiên đã thay nhân vật phát ngôn về cuộc sống (xin xem tác phẩm tr.342). Tôi nghĩ, sự tối kị nhất của một người cầm bút là nói thay nhân vật. Nhà văn cần phải biết tàng hình, biết ẩn chìm, phải dồn toàn bộ tư tưởng, quan điểm của mình vào tiếng nói nhân vật. Nam Cao, Doistoievski... là những nhà văn như vậy. Tất nhiên, đây không phải là nội dung bàn luận trong bản tham luận này.

Cũng phải nói thêm rằng, trong lần xuất thứ bản thứ hai, tác giả đã thay nhan đề tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh thành Thân phận tình yêu. Tôi nghĩ, nên giữ nguyên nhan đề lần đầu sẽ hay hơn, đúng với tinh thần tác phẩm hơn.
Trên hết, tôi vẫn đánh giá cao Nỗi buồn chiến tranh. Với tác phẩm này, Bảo Ninh là nhà văn xuất sắc trong lãnh địa tiểu thuyết và trong lĩnh vực của đề tài hậu chiến. Nỗi buồn chiến tranh đã đưa Bảo Ninh đến gần với kỹ thuật tiểu thuyết của phương Tây hậu hiện đại.                                                              
 T.H.S

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.