Bảng nhãn Vũ Duy Thanh & bài thơ thuận Hán nghịch Nôm "Xuân hứng"

15:53 16/03/2009
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

Thuở nhỏ, Vũ Duy Thanh đã có tiếng thông minh, sáng dạ. Tuổi thiếu niên đã biết làm thi phú, văn chương. Sau khi đỗ cử nhân, Vũ Duy Thanh tiếp tục thi Hội, nhưng lần đầu tiên dự kỳ thi này, ông đã bị đánh trượt. Năm Tự Đức thứ tư (1851), lần thứ hai, Vũ Duy Thanh vào Kinh đô Huế dự thí và trúng Ất Bảng (Phó Bảng). Cũng vào mùa hè năm này, vua Tự Đức cho mở Chế khoa Bác học Hoành tài (là khoa thi đặc biệt do vua tổ chức để tuyển chọn nhân tài, kỳ thi này được tổ chức bất thường, tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện, sự cần thiết mà mở khoa thi, không theo sự quy định về thời hạn như các kỳ thi Hội). Trong lần dự thi này, Vũ Duy Thanh được ban đỗ Đệ nhất giáp Cát sĩ Cập đệ Đệ nhị danh. Khoa thi Bác học Hoành tài này đích thân vua Tự Đức ra đề văn sách và chấm điểm.

Sau khi đỗ bảng nhãn, Vũ Duy Thanh được nhập hàm Hàn Lâm Viện Thị độc(1), sau làm việc tại Tập Hiền Viện(2), rồi được bổ làm Tư nghiệp(3) ở Quốc Tử Giám, sau đó lại được thăng bổ tiếp làm Tế tửu(4) Quốc Tử Giám.

Giai đoạn quan trường, Vũ Duy Thanh được xem là vị quan thanh liêm, giản dị. Là người gắn bó với sự nghiệp giáo dục, Vũ Duy Thanh đã nhìn thấy những bất hợp lý trong giáo dục và đào tạo đương thời, đó là cơ sở thực tế để ông đưa ra những quan điểm, những ý kiến tích cực về giáo dục.

Ông từng dâng sớ có những quan điểm về chỉnh đốn ngành giáo dục như muốn được thực tài phải khôi phục phép dạy của cổ nhân, Vũ Duy Thanh liệt ra tám mục: Cẩn trọng trong giáo dục từ các trường ở làng, xã; kén chọn tổng lý và tá lại; dựng xã thương; giữ nguyên phép dạy ở các trường phủ huyện; nghị đổi lại phép thi Hương; mở rộng phép dạy ở các trường thuộc về Quốc học; chọn thầy, chọn bạn cho các tôn sinh; sửa định lại việc ban phát kinh sách. Ngoài giáo dục, ông còn dâng sớ đề nghị triều đình cải cách công tác quốc phòng, kinh tế rất sâu sắc... Ngay cả khi lâm trọng bệnh, ông vẫn còn để lại một bài trần tình đề nghị triều đình chỉnh đốn nhiều mặt để đối phó với tình hình chính trị, xã hội bấy giờ, khi mà thực dân Pháp đã trực tiếp xâm phạm bờ cõi Việt Nam.

Những quan điểm thẳng thắn ấy đã tạo cho Vũ Duy Thanh những uy tín trong triều đình, người ta không chỉ nể ông là người học rộng, hiểu nhiều mà còn khâm phục ông về tư chất của một vị quan bộc trực thẳng thắn.

Ca ngợi tài năng và khí tiết của một người học rộng tài cao, các nho sĩ Ninh Bình đã làm một bài thơ tưởng niệm Vũ Duy Thanh như sau:
Bảng vàng bia đá bậc tam khôi,
Giấc mộng phù sinh luống ngậm ngùi.
Nền Hạnh mây mờ sao điểm tối,
Rừng Quỳnh nắng rọi đoá mai rơi.
Vài tờ chương sớ nghìn thu để,
Hai chữ châu phê chín bệ soi.
Trên chốn đô môn ngày vĩnh quyết,
Tình này cảnh ấy thuở nào nguôi.

Cũng như nhiều trí thức phong kiến khác trong lịch sử Việt Nam, ngoài những công việc quan trường thường nhật, ngoài những công việc chăm lo sự nghiệp giáo dục trong tư cách là một công bộc mẫn cán, chắc chắn Vũ Duy Thanh còn có những khoảng riêng tư để biên soạn trước tác, xướng hoạ thi phú. Vũ Duy Thanh có các tác phẩm văn học tiêu biểu như Bồng Châu Vũ tiên sinh thi văn, Trừng phủ thi tập...

Bài thơ Xuân hứng của ông là một minh chứng xác thực nhất. Đây là một bài thơ rất đặc biệt, phản ánh khá rõ sự tài tình của người sáng tác bởi lối chơi chữ đạt đến độ cao siêu, trác việt.
Bài Xuân Hứng được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú (thuận nghịch độc: đọc xuôi và ngược). Điều đáng nói ở đây là chỉ một bài thơ nhưng dùng theo lối thuận nghịch độc, nhưng đọc xuôi là chữ Hán; đọc ngược lại là chữ Nôm, chữ Nôm ấy cũng là bản dịch của bài thơ chữ Hán (đọc xuôi).

Do vậy, chúng tôi tạm gọi bài thơ này là thuận Hán nghịch Nôm (hay là đi Hán về Nôm) trong ý nghĩa hình thức. Xin giới thiệu nguyên văn cả hai vòng đọc Hán và Nôm như sau:

- Đọc xuôi (chữ Hán):                             Phiên âm:
                                    XUÂN HỨNG
                                    Thi đàn tế liễu lộng hoa hài
                                    Khách bộ tuỳ sương ấn bích đài
                                    Kỳ cuộc đả phong thanh áp trận
                                    Tửu biều nghinh tuyết bạch hoà bôi
           
                                    Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc
                                    Yến tịch lăng hoa vị át mai
                                    Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
                                    Ư tình cố ý thuộc quyên ai.

- Đọc ngược (chữ Nôm):                        Phiên âm:
                                    Ai quen thuộc ấy có tình ưa
                                    Đêm tĩnh đầu am thảo phất phơ
                                    Mai át mùi hoa lừng tiệc yến
                                    Cúc lìa hương nguyệt thấu rèm thưa

                                    Bôi hoà bạch tuyết nghiêng bầu rượu
                                    Trận áp thanh phong đánh cuộc cờ
                                    Rêu biếc in sương tuỳ bước khách
                                    Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.

                                                            (HỨNG XUÂN).

Bài Xuân hứng của Vũ Duy Thanh quả là diệu bút, tài tình vì nhiều lẽ, vừa là một bài thơ chữ Hán, vừa là bài thơ chữ Nôm, bài Nôm lại là bản dịch thơ của bài Hán, nhưng vẫn đảm bảo tất cả những quy định của một bài thất ngôn bát cú Đường luật, gồm nhiều yếu tố như vần, niêm, luật bằng trắc, đối ngẫu... Đây là một trường hợp chơi chữ hi hữu, phản ánh rõ cái tài chữ nghĩa của người xưa.

                 H.T
-------
(1) Viện hàm cao cấp trong Viện Hàn lâm, được dự vào việc giảng dạy và biên soạn sách vở ở Quốc Tử Giám, viện Tập Hiền...
(2) Một tổ chức giáo dục chuyên giảng sách kinh điển, chính trị... cho vua và các quan đầu triều, chế độ giảng dạy được tổ chức định kỳ trong mỗi tháng, có khai giảng và bế giảng theo thể thức triều nghi.
(3) Tư nghiệp tương đương Hiệu phó
(4) Tế tửu tương đương Hiệu trưởng

(167/01-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯ      

    Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.

  • THÁI PHAN VÀNG ANH    

    Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.

  • PHAN NGỌC

    Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.

  • PHAN ĐÌNH DŨNG

    1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN    

    Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

  • Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn

    PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có.                                                                                   (Sainteny)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG     

            (Gởi Hoàng Thị Hạnh)

  • MAURICE BLANCHOT    

    Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...

  • TRẦN NGỌC HIẾU    

    Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

  • THANH NGÂN  

    Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.

  • MAI VĂN HOAN  

    Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

  • PAUL DE MAN  

    Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.