Bàn thêm về câu "Lấy dân làm gốc"

15:01 20/03/2020

TRẦN ĐÌNH SỬ

Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

Ảnh: internet

Nhưng có một vấn đề chưa rõ: Câu "dân vi bản" do ai nói, nói bao giờ? Anh Văn Như Cương chỉ nói chung chung, phiếm chỉ: "Ngày xưa các cụ hiền triết chỉ nói "Dân vi bản”. Anh Đào Thái Tôn trong bài báo sau đó đã "vặn" lại anh Cương: "Ngày xưa là thời nào? những nhà hiền triết ấy là ai?" Nhưng anh Tôn cũng không biết. Anh chỉ nói lấp lửng, nửa chiều ra có, nửa chiều ra không. Anh viết: "Các vị ấy nói hàng trăm thứ chuyện. Nhưng chưa vị nào "nói" đến ba chữ "dân vi bản" không nằm trong văn cảnh nào như thế hoặc chỉ nói dân vi bản”. Xét qua vài bài quen thuộc của Khổng Tử, Mạnh Tử, khống thấy có. Xét lại vài bài của Nguyễn Trãi anh cũng thấy "chưa thấy cụ viết ba chữ liền "dân vi bản". Cuối cùng, anh đề nghị nên "thông cảm" với các cụ, đừng nên "bắt các cụ nói tuột ra một mệnh đề "dân vi bản" không nằm trong văn cảnh nào cả”. Hơn nữa cụ nào cũng hô lên "Dân vi bản!" thì làm gì còn xã hội phong kiến để các cụ sống mà... nghĩ về dân! "Vậy không rõ có cụ nào nói "dân vi bản" trong văn cảnh cụ thể không? Có cụ nào hô lên "dân vi bản" chưa? Xem ý tứ câu văn thì hình như anh Tôn cho rằng các cụ đã "nói” "dân vi bản" trong văn cảnh, và đừng "bắt" các cụ nói tuột ra ba chữ ấy liền mạch. Tôi nghĩ đó là một ngộ nhận.

Theo tôi biết, cụm từ "dân vi bản" xuất hiện ở Trung Quốc vào thời cận đại, trong phong trào cải lương tư sản cuối thế kỷ XIX. "Dân vi bản" là câu của Khang Hữu Vi (1858-1927), lãnh tụ của phái cải lương tư sản Trung Quốc thời ấy. Trong bài Xuân thu bút tiêu đại nghĩa vi ngôn khảo ông viết: "Nước thành lập ra là để cho dân. Việc nước không thể không có người trông nom, cho nên mới lập ra vua, vì thế mà dân vi bản nhi quân vi mạt (dân là gốc mà vua là ngọn). Một nhà tư tưởng khác của phong trào dân chủ tư sản này là Đàm Tự Đồng (1866-1898) phát triển tư tưởng ấy, tiếp nối truyền thống phê phán tư tưởng quân chủ có từ Hoàng Tông Hy (1610-1695), tiếp thu tư tưởng "dân chủ", "dân quyền" của phương Tây đã cho rằng: "Dân chúng ban đầu vốn không có ai là vua cả, tất cả mọi người đều là dân. Dân không thể tự trị và cũng không thể trị nổi, cho nên cùng nhau cử ra một người làm Vua" (Nhân đạo). "Do có dân mà mới có vua, không phải vua chọn dân mà là dân chọn vua vậy". - "Vua là ngọn, dân là gốc vậy", (quân, mạt dã, dân, bản dã). Lại nói "Vua do dân bầu ra thì cũng do dân phế truất", tiếp đó ông chỉ trích chế độ quân chủ đã "đặt ngược gốc ngọn", "vua biến thành giặc của dân, kẻ độc tài của dân". Các tác giả này đã dựa vào tư tưởng "dân chủ" để phủ nhận triệt để tư tưởng tôn quân hủ bại hàng nghìn năm. mặc dù họ vẫn còn thừa nhận vua trong "thể chế quân chủ lập hiến".

Theo tôi thì các cụ chí sĩ cách mạng cận đại của ta đã tiếp thu tư tưởng "dân vi bản" từ nguồn này. Có thể là các cụ đã đọc sách Khang Lương rồi nhập tâm truyền khẩu chứ không viết ra thành bài. Điều này cần được thẩm tra lại. Nhưng các cụ hiền triết này không xưa lắm đâu. Trong bài Hải ngoại huyết thư (1906) Phan Bội Châu có nhắc đến câu "Dân vi bản" (Dân là gốc của đất nước) mà các tác giả Hợp tuyển thơ văn Việt nam tập IV, quyển 2 cho biết là lời của Kinh Thư, rất cổ, nhưng cái tinh thần "Người dân ta, của dân ta, Dân là dân nước, nước là nước dân" thì chỉ có thể là tinh thần cận đại, chủ trương dân chủ. Bởi lẽ dân là gốc của nước, nhưng nước chưa hẳn đã là của dân (nước dân). Điều này khác hẳn tư tưởng "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (Dân là quí, Nhà nước kém hơn, vua là nhẹ) của ông Mạnh Tử (372-289), một người chỉ xem dân là phương tiện, chứ không xem dân là mục đích. Ông nói "Giữ gìn dân để làm vua thì không ai có thể chống lại được" (Mạnh Tử Lương Huệ Vương thượng) việc quí dân ở đây chỉ là tiền đề để giữ gìn chế độ quân chủ.

Tuy vậy, nếu xét kỹ nội hàm chữ bản, thì trong tư tưởng triết học Trung Hoa xưa, bảnbản nguyên hay bản thể, có thể hiểu là cội nguồn, gốc, bản thể. Chẳng hạn Thiệu Ung (1011-1107) nêu: "Đạo là gốc của thiên địa, thiên địa lại là gốc của vạn vật" (Quan vật nội thiên). Chu Hy (1130-1200) thì nói "Lấy lý làm gốc" (Dĩ lý vi bản), lại nói: "Thái cực như một gốc mọc lên, chia thành cành nhánh, lại từ cành nhánh mà sinh ra lá ra hoa, sinh mãi không cùng" (Chu Tử ngữ loại). Xem thế thì biết, câu "dân là gốc", xét về tính quan niệm, thì chưa phải đã thể hiện một tinh thần dân chủ thực sự, vì dân chủ đòi hỏi xem dân là chủ thể, chứ không chỉ là bản thể hay cội nguồn. Tính chất khách thể của dân trong mệnh đề trên không phải do dịch thành "làm” hay "là" mà có như anh Văn Như Cương tưởng, mà do ý nghĩa của chữ bản (gốc) qui định. Sử dụng câu chữ xưa để diễn đạt tư tưởng mới là chuyện bình thường, vì đời sống tư tưởng của xã hội không thể thiếu được sự kế thừa. Nhưng không nên quên rằng cái nghĩa gốc của từ ngữ cổ xưa thường trói buộc, hạn chế sự biểu đạt ý nghĩa mới.

Đảng ta nói "Lấy dân làm gốc" để diễn đạt một tư tưởng dân chủ có tính cách mạng. Ta hiểu đó là một cách dùng từ bóng bẩy có hình ảnh ẩn dụ do từ gốc ngọn mà ra, lại mang một ý vị truyền thống, gần gụi với cha ông thời trước. Hoàn toàn không nên xem đó là một thuật ngữ triết học hay chính trị học hiện đại. Những lúc cần diễn đạt chính xác, rõ ràng, thiết tưởng không chữ nào hay hơn chữ dân chủ, tinh thần dân chủ, nguyên tắc dân chủ.

Hà Nội. 4-1991
T.Đ.S
(TCSH47/01&2-1992)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.