Bản sắc văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai

09:43 25/09/2020

1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).

Trong khi đó lại có những triều đại, nhân vật lịch sử vẫn là những “khoảng trắng”, chưa và ít được các nhà văn để ý đến, đặc biệt là những triều đại và nhân vật trước cột mốc lịch sử 938. Ý thức được việc lấp đầy những khoảng trắng này vừa là bổn phận, trách nhiệm của con cháu đối với công ơn của các bậc tiên liệt vừa mở ra những hướng tiếp cận khác cho đề tài lịch sử, trong vòng 5 năm trở lại đây, nhà văn Phùng Văn Khai đã xuất bản liên tiếp ba tiểu thuyết Phùng Vương (Nxb Hội Nhà văn, 2015), Ngô Vương (Nxb Văn học, 2018) và Nam Đế Vạn Xuân (Nxb Văn học, 2020) viết về Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lý Nam Đế - những bậc anh hùng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc mà cho đến nay vẫn hiển diện một cách mờ nhạt trong văn học Việt.

Với bộ ba tiểu thuyết này, Phùng Văn Khai đã có cú “lội ngược dòng” lịch sử trên phương diện thi pháp thể loại. Việc trở lại với một trong những hình thức “nguyên thủy” của tiểu thuyết là chương hồi là hướng tiếp cận khá thú vị và đầy bất ngờ của Phùng Văn Khai. Tiểu thuyết chương hồi với đặc trưng cơ bản là diễn tiến cốt truyện tuân theo thời gian tuyến tính có thể giúp bạn đọc tiếp thu tác phẩm dễ dàng hơn trong bối cảnh nhịp sống xã hội đang ngày càng hối hả, gấp gáp như hiện nay. Tuy nhiên đây không phải là vấn đề đáng quan tâm nhất trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.

Điểm cốt yếu trong bộ ba tiểu thuyết này, theo tôi là cái cách anh miêu tả và tái hiện lịch sử. Lịch sử qua ngòi bút của Phùng Văn Khai không chỉ là những câu chuyện xưa cũ, không chỉ gợi lên những vấn đề của xã hội đương đại hôm nay mà lịch sử còn chính là văn hóa. Trong bộ ba tiểu thuyết này, chúng ta bắt gặp những dòng chảy văn hóa Việt song hành cùng dòng chảy lịch sử.


2. Lịch sử quốc gia, dân tộc Việt luôn chịu tác động trực tiếp, gián tiếp của lịch sử Trung Quốc từ thuở dựng nước cho đến thời hiện đại. Đó là định mệnh của quốc gia, dân tộc mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận. Trong nhiều tiểu thuyết lịch sử, các tác giả thường chỉ chú ý miêu tả đời sống chính trị - xã hội nước nhà mà bỏ qua hoặc chỉ miêu tả khái lược về đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc cùng thời và những tác động của đời sống chính trị - xã hội đó đối với vận mệnh dân tộc. Phùng Văn Khai đã chọn cho mình một hướng tiếp cận lịch sử khác.

Anh miêu tả kĩ đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc, đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với đời sống chính trị - xã hội nước nhà trên cả hai bình diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, sự tan rã của nhà Đường khi xảy ra loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh (Phùng Vương) là thời cơ có một không hai để họ Phùng đất Đường Lâm phất cờ tụ nghĩa; việc “thay tướng giữa dòng” của Lương Vũ Đế (Nam Đế Vạn Xuân) là “giọt nước tràn li” khiến người dân vùng Giao Châu nổi dậy dưới lời hiệu triệu của Lý Bí; chiến sự giữa nhà Hậu Đường và Hán đế Lưu Cung (Ngô Vương) là nhân tố ngoài dự kiến khiến việc xưng vương của Ngô Quyền gặp thuận lợi sau đại thắng Bạch Đằng 938.

Ở tầm vi mô, những toan tính, đấu đá chính trị trong nội bộ những viên quan Trung Quốc cai trị nước ta như giữa Cao Chính Bình và Trương Bá Nghi (Phùng Vương), giữa Tiêu Tư và Lý Tắc, Trương Húc (Nam Đế Vạn Xuân), Hoằng Tháo và Độc Toàn Chân (Ngô Vương) có ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí quyết định đến cục diện chiến trường giữa nghĩa quân và quân xâm lược.

Tuy nhiên, theo tôi, điểm cốt lõi Phùng Văn Khai muốn nhấn đến qua những miêu tả này là sự khác biệt giữa văn hóa chính trị của hai quốc gia, dân tộc. Đối lập với văn hóa chính trị mang tính chất áp đặt, tự nhận là trung tâm thế giới, coi thiên hạ bên ngoài đều là chư hầu, thuộc địa của Trung Quốc là nền văn hóa chính trị uyển chuyển theo nguyên lí “miên lí tàng châm” của Việt Nam.

Văn hóa chính trị của người Việt vừa uyển chuyển, mềm mại như sợi bông vừa cương quyết, cứng rắn, mạnh mẽ và khó đoán định như mũi châm vô hình, vô ảnh. Người Việt chỉ mong sống trong hòa bình, yên ổn, không có dã tâm xâm lược, chiếm đoạt nhưng không hề yếu đuối. Sợi bông tuy mềm mại không hại ai nhưng mũi châm nhọn ẩn trong đó đủ sức làm đau, làm chùn ý định chiếm đoạt của bất cứ thế lực nào.

Khi Sĩ Nhiếp dùng đức phục chúng, không làm phương hại đến dân tộc, quốc gia, người Việt tôn làm Nam Giao học tổ, còn khi những kẻ cuồng hãn như Triệu Tư, Cao Chính Bình, Hoằng Tháo đem vũ lực hòng trấn áp, cướp bóc, giết hại thì ngay lập tức chúng vấp phải những đòn đáp trả sấm sét của dân tộc Việt.

Những đòn đáp trả đủ “độ” để vừa giành lại độc lập tự do cho dân tộc, vừa đảm bảo tình hòa hiếu, “thể diện” cho thiên triều nhằm tránh họa binh đao sau này như cái cách Lý Bí tha cho tướng giặc Thạch Đạt (Nam Đế Vạn Xuân), Phùng Hưng lấy thành Tống Bình khi Cao Chính Bình ốm chết (Phùng Vương). Có thể nói, nguyên lí “miên lí tàng châm” đã toát lên cái sâu sắc, miên viễn, linh hoạt, tinh tế trong văn hóa chính trị của người Việt. Một nền văn hóa chính trị đề cao hòa bình, hòa hợp, hòa hiếu.


3. Bên cạnh văn hóa chính trị, bộ ba tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai còn khắc họa những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, trong đó có văn hóa tâm linh. TS. Nguyễn Văn Hùng trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử như là sự kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa đã rất tinh và sâu sắc khi nhận thấy qua tiểu thuyết lịch sử, “Phùng Văn Khai đã nỗ lực phục dựng văn hóa Phật giáo như là nền tảng tinh thần của người phương Nam (khu vực ngoại biên) kháng cự lại văn hóa phương Bắc (khu vực trung tâm)…

Tác giả đã dày công tìm hiểu lịch sử và văn hóa Phật giáo, đặt định song hành với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lý Nam Đế, hình thành nên diễn ngôn định vị văn hóa bản địa”. Nhận định trên của Nguyễn Văn Hùng mới chỉ đề cập đến phương diện tôn giáo trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai. Tôn giáo là một thành tố cốt lõi của bất kì nền văn hóa tâm linh của quốc gia nào.

Tuy nhiên, tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai ngoài tôn giáo còn có những yếu tố khác của văn hóa tâm linh Việt. Để tái hiện những yếu tố văn hóa tâm linh này, Phùng Văn Khai một mặt dựa vào những tư liệu, khảo cứu dân tộc học, văn hóa học như những nghiên cứu về dòng thiền Luy Lâu, một mặt sử dụng triệt để thần thoại, truyền thuyết, huyền sử và dã sử.

Văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết biểu hiện trước nhất ở tín ngưỡng thờ vua Hùng, thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ - những vị quốc tổ của người Việt (Phùng Vương, Nam Đế Vạn Xuân), thứ nữa là ở hệ thống thần và tín ngưỡng thờ thần của người Việt. Đó là những vị thần được nhân dân tôn vinh là bất tử như Chử Đồng Tử và Tản Viên sơn thánh, là hệ thống thần bản địa như thần sông Tô Lịch, thần thành Đại La… và hệ thống nhân thần vốn là những người có công với đất nước khi mất đi hóa thành thần như Bố Cái Đại Vương (Ngô Vương).

Phùng Văn Khai luôn miêu tả hai tín ngưỡng này và các bậc quốc tổ, thần đất Việt trong mối quan hệ, gắn bó với địa thế, địa hình tụ hội linh khí của dân tộc có hình dạng “trạch đắc long xà”, “phát đế xưng vương” như đất Phong Châu, đất Đường Lâm, núi Tản Viên… Sự hiển diện với tần suất dày đặc của văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử có tác dụng khơi dậy ý thức về nguồn cội dân tộc một cách mạnh mẽ.

Trong Nam Đế Vạn Xuân, hình ảnh đối lập giữa ngôi đền Lạc Long Quân “khang trang, vững vàng giữa quả đồi đất lớn xung quanh là những tầng cây cổ thụ hàng lối nghiêm ngắn” với người thờ cúng đông đảo và ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp nằm ở “cách đó không xa, trên một đồi đất rộng phía bên phải” mang một dụng ý rõ ràng. Sự đối lập giữa vị trí và vị thế của hai ngôi đền là cách Phùng Văn Khai khẳng định người Việt là một dân tộc “khu biệt” hoàn toàn không dính dáng gì với người Trung Hoa, không phải là một nhánh của người Trung Hoa xuống phía Nam kiếp sống.

Sự thất bại trong việc yểm bùa, trấn trạch long mạch nước Nam và cái chết trong đau đớn, tức tưởi của Trương Thuận khi dám mạo phạm thần Tản Viên, thần sông Tô Lịch, sự phản kháng dữ dội của nhân dân thành Đại La trước bản dụ xấc xược xúc phạm tổ tiên của Tiêu Tư là những minh chứng cho tính tôn nghiêm, toàn vẹn của nền văn hóa tâm linh Việt.

Mặt khác, Phùng Văn Khai đã để cho các nhân vật có hàng loạt “phát ngôn” ngợi ca nguồn cội và sự trường tồn của dân tộc từ khía cạnh văn hóa tâm linh như lời của Phùng Hạp Khanh với Vũ Khánh và con trai Công Phấn: “Tản Viên còn thì nước Nam còn, đời đời sẽ là như thế”(1), lời Phùng Hưng với chư tướng: “Phong Châu là vùng văn cốt, đất rộng, người đông, nơi xưa kia các vua Hùng từng đặt quốc đô ở đó, linh khí đất trời hưng vượng của An Nam ta cũng từ đó mà ra”(2).

Qua những phát ngôn trên, Phùng Văn Khai đã khẳng định sự vĩnh cửu và sức mạnh của nền văn hóa tâm linh dân tộc chính là nhân tố quyết định làm thất bại âm mưu “đồng hóa”, cai trị người Việt của người Trung Quốc dù họ đã áp dụng “trăm phương nghìn kế” từ dùng nhân trị, đức trị như Sĩ Nhiếp đến pháp trị, võ trị như Tiêu Tư, Trương Thuận, Cao Chính Bình. Đây là một trong những điểm cốt lõi tạo nên giá trị cho tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.


4. Ngoài đời sống văn hóa tâm linh, trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, Phùng Văn Khai còn chú trọng khai thác những giá trị văn hóa khác của dân tộc. Đó là những giá trị của nền văn hóa nông nghiệp. Nền văn hóa ấy được Phùng Văn Khai gợi nên từ những trang văn miêu tả các sản vật đặc trưng của nền văn minh lúa nước như bánh chưng, bánh dày, bánh giò, món cá rô nấu xôi (Ngô Vương), từ những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt như tục săn, thuần hóa voi (Phùng Vương), từ những lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân, tháng giêng - tháng ăn chơi theo quan niệm của người Việt - như lễ hội đi cà kheo ở vùng biển, lễ hội đua thuyền, lễ hội chọi trâu (Ngô Vương) cùng những trò chơi dân gian đánh đu, chọi gà (Nam Đế Vạn Xuân).

Ngoài văn hóa nông nghiệp, văn hóa quân sự cũng là một khía cạnh đáng chú ý của bộ ba tiểu thuyết lịch sử kể trên. Ở phương diện đối kháng cá nhân, người Việt nổi tiếng với môn võ vật truyền thống. Những trận đấu giữa sới vật ngày xuân trong Nam Đế Vạn Xuân đã tái hiện những miếng vật cổ truyền, bí hiểm của cha ông dựa trên hình thể của mình nhằm khuất phục những đối thủ to lớn hơn.

Về lực lượng tác chiến, Phùng Văn Khai dồn bút lực miêu tả hai lực lượng quân sự trọng yếu, mang đậm bản sắc Việt trong thế đối sánh với sức mạnh của quân xâm lược là tượng binh và thủy binh. Phương Bắc cưỡi ngựa, phương Nam đi thuyền, lịch sử quân sự Việt Nam đã chứng minh thủy binh Việt là lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ có những công lao, chiến tích “oanh liệt thiên thu” góp phần đặt “dấu chấm hết” cho các cuộc xâm lược của kẻ thù trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước.

Cách huấn luyện, sử dụng voi trong chiến trận của người Việt cũng có những điểm độc đáo, khác lạ làm kẻ thù khiếp sợ. Những trang viết về những chuyến đi săn, thuần hóa, huấn luyện, chiến đấu của tượng binh trong trận phục binh giết chết tướng giặc Thang Ân Bá tại núi Ngõa Cương, xéo nát quân Đường trong trận chiến giữ Đường Lâm (Phùng Vương), cách chọn gỗ để đóng thuyền, kĩ thuật đóng, cách sơn, cách huấn luyện binh sĩ và phương pháp tác chiến của thủy binh Việt trong những trận hải chiến dữ dội trên sông Bạch Đằng (Ngô Vương), ở đầm Sương Mù (Nam Đế Vạn Xuân) là những trang viết sinh động, lôi cuốn bậc nhất ở cả ba tiểu thuyết. Về nghệ thuật tác chiến, phương châm “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắng thắng mạnh” vốn là tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam cũng được thể hiện rõ với việc điều binh khiển tướng của ba vị anh hùng Ngô Quyền, Phùng Hưng và Lý Nam Đế trong hành trình giành lại độc lập cho dân tộc.

Văn hóa chính trị, văn hóa tâm linh, văn hóa nông nghiệp và văn hóa quân sự là bốn “cột trụ” của văn hóa Việt trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Phùng Văn Khai. Với ý đồ phục dựng các thiết chế văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử, tôi cho rằng cái đích sau cùng Phùng Văn Khai hướng đến không phải là câu chuyện về sự kháng cự giữa văn hóa ngoại biên (văn hóa Việt) đối với nền văn hóa trung tâm (văn hóa Trung Quốc) như nhận định của TS. Nguyễn Văn Hùng trong đoạn trích dẫn trên mà là lời khẳng định về sự bình đẳng giữa hai nền văn hóa, hai quốc gia và hai dân tộc. Đây là điểm hết sức quan thiết. Chỉ trên cơ sở bình đẳng, nước ta, dân tộc ta mới có thể tồn tại vững vàng, an nhiên bên cạnh một người láng giềng như Trung Quốc. Giá trị cốt lõi của bộ ba tiểu thuyết lịch sử mấy nghìn trang của Phùng Văn Khai, tôi nghĩ nằm ở đấy.

Nguồn: Đoàn Minh Tâm - VNQĐ

-------

1. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 77.

2. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 444.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 2 đầu sách Thú lang thang người Hà Nội và Thú ăn chơi người Hà Nội (2 tập) của nhà văn Băng Sơn vừa được Huy Hoàng Bookstore tái bản và ra mắt độc giả. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến cho rằng, đọc lại những cuốn sách này có thể nhận thấy tình yêu rất lớn Băng Sơn dành cho Hà Nội.

  • Trong giới nghiên cứu, cái tên Nguyễn Thị Hậu rất quen thuộc, mọi người còn đặt cho chị cái tên thân thiết là “Hậu khảo cổ”.

  • Tiểu thuyết “L’Étranger” nổi tiếng của nhà văn, triết gia người Pháp Albert Camus đã được độc giả Việt Nam biết tới qua bản dịch “Người xa lạ” từ những năm 60 của thế kỷ trước.

  • Cuốn sách “Cô gái đến từ hôm qua” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vừa được NXB Trẻ ra mắt phiên bản đặc biệt nhân dịp chuẩn bị công chiếu bộ phim cùng tên do đạo diễn Phan Gia Nhật Linh chuyển thể kịch bản và dàn dựng.

  • Sau 12 năm từ lần xuất bản đầu tiên, tiểu thuyết lịch sử “Trần Quốc Toản” của nhà văn Lưu Sơn Minh “tái xuất” với diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Ngày 15/6/2017, nhân dịp “Trần Quốc Toản” phiên bản mới (họa sĩ Thành Phong minh họa, Công ti Cổ phần Văn hóa Đông A và Nxb Văn học liên kết ấn hành) ra mắt bạn đọc, buổi giao lưu với nhà văn Lưu Sơn Minh đã diễn ra tại Nhà sách Cá Chép - 115 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.

  • Đó là tác phẩm mới ra mắt của nhà thơ Nguyễn Duy. Tác phẩm là tập hợp các bài viết vốn đã đăng rải rác trên các báo nhiều năm nay.

  • Nguyễn Quang Thiều tâm sự rằng, suốt cả tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê như ông, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi, đó là ngọn gió của… đói rét.

  • Nhiều trang viết của tác giả mô tả chuyện quan hệ trai gái với từ ngữ bị nhận xét phản cảm.

  • Tiếp sau tập truyện “Đỉnh khói” quy tụ các truyện ngắn về chiến tranh và đời thường, Nguyễn Thị Kim Hòa tiếp tục diện kiến bạn đọc bằng tập truyện “Con chim phụng cuối cùng”. Tập sách gồm 9 truyện ngắn đều tập trung vào đề tài lịch sử với những nhân vật nữ ám ảnh.

  • Các nhà văn Sài Gòn trước đây đều viết feuilleton (tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Đầu tiên là có thu nhập hằng tháng để lo cho nồi cơm. Thứ nữa là để độc giả biết tên tuổi, biết tiểu thuyết của mình. Thứ ba là việc viết feuilleton thúc đẩy nhà văn sáng tác liên tục, đồng thời nắm được thị hiếu, yêu cầu của người đọc đương thời.

  • Tác phẩm "Ta có bi quan không?" của Khải Đơn kể những trải nghiệm khó khăn trên hành trình trưởng thành của người trẻ.

  • Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) Chu Văn Hòa cho biết Cục đang lập hồ sơ để ra quyết định thu hồi cuốn sách “Miếng ngon Hà Nội” do Nhà xuất bản Dân trí liên kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Văn hóa Minh Tân – Nhà sách Minh Thắng phát hành do cuốn sách có sai phạm nghiêm trọng về nội dung.

  • Giọt sầu đa mang là cuốn tiểu thuyết thứ 9 của nhà văn Nguyễn Đình Tú. Điểm đặc biệt ở nhà văn này khiến cho anh bật lên so với các nhà văn cùng thế hệ là sức viết khỏe, viết đa dạng nhiều chủ đề...

  • Ở tuổi 85, nhà văn “lão làng” Nguyễn Xuân Khánh tuyên bố dừng viết, bằng một “dấu chấm” được cho là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời văn nghiệp của ông: “Chuyện ngõ nghèo”. Nhưng một mặt, ông lại tiếc, kể chi quỹ thời gian của mình còn nhiều, để có thể... học thêm hai ngoại ngữ nữa.

  • Những cuốn tự truyện viết về tuổi thơ thời chiến tranh, thời bao cấp xuất hiện trên văn đàn không chỉ là những câu chuyện của ký ức tác giả mà còn như những cánh cửa mở ra để độc giả khám phá, tiếp cận với lịch sử ở nhiều góc cạnh khác nhau.

  • “Kim Thiếp vũ môn” là một quyển sách mà cấu trúc, văn phong và bút pháp không theo tiền lệ, nhưng mỗi câu chữ, mỗi chương, mỗi hồi không chỉ là lịch sử, là khoa học, là tiểu thuyết mà còn là tình yêu, là thân phận, là văn chương, thế sự, cuộc đời...

  • Trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” đã đưa Ngô Kha - một nhà thơ tranh đấu trong phong trào hòa bình và dân tộc ở Huế - trở thành nhà thơ Việt đầu tiên kết hợp được thơ siêu thực và thơ yêu nước.

  • Nhân kỷ niệm 42 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2017), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật vừa cho ra mắt ấn bản tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, sự thật trong cuốn sách là thứ kim cương của văn học tư liệu.

  • Sẽ thật vô duyên nếu viết dài dòng về một cuốn sách kiệm chữ từ tiêu đề trở đi, như trường hợp "Thấy" của Lê Thiết Cương. Nhưng một khi đã “thấy” ở sách nhiều điều cần thấy mà không cất lời thì e rằng kìm nín là một lựa chọn hời hợt.

  • Tính đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đã sở hữu sáu tập thơ (Gửi con lời ru, Đi ngang chiều gió, Cỏ mặt trời, Người gánh vô hình, Đứt dải yếm, Ngả vào nguyên khôi), một tập tản văn (Lạc trong đêm liêu trai), ba tập truyện ngắn (Đầm ma, Ám ảnh, Con sóng màu hổ phách), một tiểu thuyết (Mưa trong nắng). Đó là những con số biết nói. Đôi lúc tôi cứ vân vi mà nghĩ rằng, người phụ nữ mảnh mai, dịu dàng này lấy đâu ra sức lực để viết được cả ngàn trang sách như thế, nếu không là đam mê chữ nghĩa, văn chương. Hẳn là cái nghiệp!