Bản đàn xuân của Kiều

10:31 12/03/2008
Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp.
Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:
                Lọt tai nghe suốt năm cung
                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xao
Tác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:
                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ?
Giải mã cho hiện tượng “ Tiền hậu bất nhất” này là điều không dễ. Với tri thức uyên thâm, chắc chắn Nguyễn Du đã có đủ lý lẽ của mình về bản chất và triết lý của nghệ thuật: “ Thơ, ca, múa, cả ba gốc ở trong lòng rồi sau đó nhạc cụ phỏng theo. Do đó, tình sâu thì biểu hiện ra sáng tỏ, bên trong dồi dào sinh khí thì biểu hiện ra tươi sáng. Trong lòng thuận hòa thì cái đẹp, cái tinh hoa phát lộ” (... Tam giả bản ư tâm nhiên hậu nhạc khí tòng chi. Thị cố tình thâm nhi văn minh, khí thịnh nhi hóa thần, hòa thuận tích trung nhi anh hoa phát tiết- Nhạc ký). Cũng nhạc cụ ấy, cũng người đàn này, cũng vẫn là “ thiên bạc mệnh” nhưng trong những lần đàn khác nhau, với những thính giả khác nhau, Thúy Kiều không bao giờ lặp lại mình. Mỗi lần nâng phím là một lần sáng tạo. Nhạc cụ chỉ phỏng theo “ cái gốc của tâm hồn” mà “giải bày”, “bộc lộ”... tùy lúc, tùy người. Thúy Kiều là “ nghệ sĩ số một”. Bản thân nhạc khí và sự tác động trên “mười ngón tay” chỉ đơn thuần mang tính chất cơ giới. Chính trái tim người nghệ sỹ Thúy Kiều chủ động sáng tạo nghệ thuật, bằng không thì dù đàn bao nhiêu lần cũng chẳng khác gì một lần duy nhất. Hiểu như thế mới có thể chia xẻ và cảm thông với phản ứng ngỡ ngàng và không ít lúng túng lúc đầu của Kim Trọng khi nghe lại tiếng đàn mười lăm năm trước:
                Chàng rằng: phổ ấy tay nào?
                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
                Tẻ, vui bởi tại lòng này
                Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
Phương thức tu từ vừa nghi vấn vừa khẳng định, vừa phán đoán vừa kết luận, mở ra cái lung linh của ý thơ đóng hở, khép hờ tâm trạng của chàng Kim trước bản đàn kỳ lạ của người tình mà chắc hẳn chàng cứ yên tâm là quen tai đến cũ rích. Chàng Kim đâu kém năng lực thẩm mỹ nhưng chỉ có thể giải thích điểm bất cập của chàng ở chỗ chàng không thể vượt qua Thúy  Kiều bằng sự trải nghiệm như bản thân Thúy Kiều với mười lăm năm được công chứng bằng nước mắt, máu và cái chết, chưa kể đến đoạn giết chồng:
                Đoạn trường ai có qua cầu mới hay
Nếu không gắn liền với sự trải nghiệm thì tình cảm và năng lực thẩm mỹ của nghệ sĩ sẽ không đạt tới điểm đỉnh của hoạt động sáng tạo... Từ đó, có thể bắt đầu hiểu được bản đàn cuối của Kiều là một bản đàn vui.
                Khúc đâu đầm ấm dương hòa!
                Ây hồn hồ điệp hay là Trang sinh?
                Khúc đâu êm ái xuân tình!
                Ây hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?!
                Trong sao châu nhỏ duềnh quyên?
                Âm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
Đôi lúc nhà văn không tránh khỏi mất phương hướng trước nhân vật của mình. Nhưng Nguyễn Du không rơi vào trường hợp này. Không kể Thúy Kiều, tác giả và người biểu diễn, người nghe, đối tượng thẩm âm, ngoài Kim Trọng còn có Nguyễn Du “ hiện diện” với tư cách vừa là chủ thể trữ tình bao trùm vừa là nhân vật người kể chuyện quán xuyến toàn bộ tác phẩm truyện thơ. Nguyễn Du vừa miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều, vừa nhập vai vào nhân vật người nghe đàn, vừa định hướng  cho người đọc đồng thời cùng lúc ông sử dụng đan xen ngôn ngữ trực tiếp lẫn ngôn ngữ gián tiếp tạo cho sáu dòng thơ trên một phong cách khá đặc biệt. Câu cảm thán xen kẽ câu hỏi tu từ, phép điệp trùng được vận dụng tối đa ở nhịp điệu, ngôn ngữ và cả cấu trúc câu. Ngay cả câu cảm (!) nếu được thay thế bằng dấu hỏi (?) ở cuối mỗi dòng thơ và ngược lại, thì không chừng vẫn có thể chấp nhận được (!)... (**). Vừa thực vừa hư, vừa không vừa có..., Nguyễn Du đã gởi vào đây phần ngoài văn bản, phần vô ngôn của tác phẩm văn học.
Chỉ có cách diễn đạt ấy, Nguyễn Du mới nói được “ tấm lòng sáng tỏ và tinh thần hòa thuận” của nàng Kiều trong buổi đoàn viên mà Kim Trọng, dù tri âm vẫn còn một chút mơ màng. Trở về từ sông Tiền Đường, Thúy Kiều không còn là Thúy Kiều của những tháng năm xưa. Đó là con chim phượng hoàng hồi sinh từ đống tro tàn tê tái (***) với đôi cánh mới bay lên... Cuối cùng thì một người giỏi văn chương và thông minh như Kim Trọng cũng hiểu được:
                Tẻ, vui bởi tại lòng nầy.
Chàng hiểu vì sao tiếng đàn của Kiều không còn ngậm đắng nuốt cay, không còn xô bồ, hổn độn “ tiếng sắt- tiếng vàng”, “oán- sầu”, “ trong- đục”, “nhặt- khoan”... như buổi ban đầu. Chàng hiểu cái lý của nhạc, cái gốc của nhạc, chàng hiểu con người là chủ thể và đối tượng của nghệ thuật chứ không còn cái gì khác. Dù vậy, Kim Trọng vẫn chưa chịu dứt khoát kết luận:
                “Hay là khổ tận đến ngày cam lai?”
Lại nghi ngờ! ( Cũng có thể vì yêu quá mà nghi ngờ...) Đó là cái lý của từ giả định “Hay là” và phát ngôn của chàng vẫn còn ám ảnh một dạng lửng lơ: Kết luận mà vẫn còn phán đoán, khẳng định mà chưa hết nghi vấn... Có hiểu “phù du” mới sống nổi “phù sa”. Quy luật ấy không có gì giả tạo với nhân cách thần thánh của Thúy Kiều. Không chồng, không con, không dự phóng, không vận động, Kiều hạnh phúc chỗ nào? Rất nhiều câu hỏi được đặt ra tương tự để chứng minh rằng Nguyễn Du lúng túng khi hạ màn tác phẩm của mình. Câu trả lời chắc chắn sẽ “ không cùng”. Và nếu cố tìm một lối thoát thì chỉ có cách chọn một câu trả lời cục bộ: “Hạnh phúc là làm cho người khác hạnh phúc”. Thúy Kiều, nhân vật lý tưởng của Nguyễn Du thực sự có hạnh phúc. Chữ Tình, chữ Hiếu, chữ Nhân đã được Thúy Kiều viết HOA bằng máu lệ. Nói theo hiện sinh và hiện thực chủ nghĩa thì sống là dự phóng, là vận động... Một cuộc đời “khép cửa phòng thu” và “đóng cửa cài then” của Thúy Kiều đâu còn là cuộc đời? Thật ra, “lẽ sống” vốn là một từ trung tính và nó chỉ bắt đầu có nghĩa khi đi kèm với mã số định ngữ của từng người. Thúy Kiều là một con người không ngừng “lên đường”. Nàng khởi hành từ buổi chiều thanh minh và đã đi suốt 15 năm. Sau đêm đoàn tụ, Kiều lại lên đường... “Truyện Kiều” của Nguyễn Du còn mang tính chất luận đề. Sau ngày tái hợp, Kiều không còn là nhân vật tính cách mà chủ yếu đã trở thành nhân vật mang tính vấn đề.
Tiếng đàn tái hợp của Thúy Kiều vang lên từ một lòng xuân phơi phới. Mùa xuân có thật đã đến với Kiều mà bản đàn nầy là câu trả lời với chàng Kim bằng thanh âm của nhạc. Nội dung bản đàn là thế giới của mùa xuân được định hình bằng quẻ Thái của Kinh Dịch, thuận cách, thái hòa, “đầm ấm”, “êm ái”, “trong”, “ấm” và rạng ngời châu ngọc nguyên sơ. Đó là tiếng đàn “vô phân biệt” như mộng, như thực, vừa có vừa không... Quả thật, Kiều đã nâng đàn chơi một bản nhạc xuân trong đêm ấy. Có một nhà thơ đã đồng tình với Nguyễn Du và ca hát với Thúy Kiều:
                Đoạn trường sổ gói tên HOA
                Xưa là hạt lệ nay là hạt châu
                ( Phạm Thiên Thư)
---------------------------------------------------------------------
(*) Não nùng: Một từ cổ có nghĩa vui chứ không sầu não
                Vì chàng tay chuốc chén quỳnh
                Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng (C.P.N)
(**)         Khúc đâu đầm ấm dương hòa!
                Ây hồn hồ điệp hay là Trang sinh?

                Khúc đâu đầm ấm dương hòa?
                Ây hồn hồ điệp hay là Trang sinh!
                ( Giả định của người viết)...
(***)... Con chim phượng hoàng từ tro tàn tê tái
          Lại hồi sinh... ( Thơ Huy Cận)
PHƯƠNG VÂN
(nguồn: TCSH, 1.1999) 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.