NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
Chị Thiếu - tức Nguyễn Thị Thiếu Anh (Ảnh trái) và Em Dư - tức Hoàng Thị Bích Dư (Ảnh phải)
Một chuyến du chơi
Một chuyến du chơi giật cả mình
Xiêu hồn khiếp vía loạn thần kinh
Tàu bay nhào lộn quay từ tốn
Bảo Đại ngả nghiêng lái tự tin
Chị Thiếu xâm xoàng nôn tháo dạ
Em Dư chóng mặt ọe ra mình
Khi về hạ cánh vua cười nói:
“Cuộc ngoạn mê say thật hạnh vinh!”
Nguyễn Hồng Trân
Bài thơ Đường này xuất phát từ câu chuyện thực tế: “Đi thơm - về thúi” ở Huế ngày xưa mà đến nay người ta vẫn còn nhắc đến và kể cho nhau nghe cho vui. Đó là chuyện về hai cô nữ sinh trường Đồng Khánh - Huế học giỏi, có năng khiếu văn thơ và đã thi đoạt giải cao. Vua Bảo Đại biết tin và khuyến khích ban thưởng cho mỗi cô một chiếc bút Paker kèm một quyển sổ tay, đồng thời mời cho đi du ngoạn trên không gian kinh thành Huế bằng máy bay thể thao chuyên dụng của nhà vua.
Khi nhận được giấy mời vào mùa hè năm 1938, hai cô nữ sinh Hoàng Thị Bích Dư (người quê ở Quảng Trị) và Nguyễn Thị Thiếu Anh (người Hà Tĩnh) rất hân hoan sung sướng vì vinh dự được nhà vua ưu ái ban thưởng cho chuyến du ngoạn hàng không đặc biệt này. Trước khi đến sân bay Tây Lộc - Huế để chuẩn bị cho cuộc hành trình này, cả hai cô mặc y phục và trang điểm rất đẹp đẽ và xịt nước hoa thơm lừng. Bà con, bạn bè, cô thầy giáo cũng đến tận sân bay để chứng kiến một sự kiện nhỏ có ý nghĩa này.
Chiếc tàu bay đã đậu sẵn ở sân bay. Một lát sau có chiếc xe con bóng loáng đưa nhà vua đến. Người lái xe mở cửa mời vua Bảo Đại ra xe. Mọi người đứng xung quang vỗ tay chào nhà vua. Vua Bảo Đại vẫy tay chào mọi người và gọi hai cô Dư và Cẩm đến. Hai cô cúi đầu chào nhà vua rồi lên máy bay. Mọi người vui tươi chào tiễn vua và hai cô. Vua Bảo Đại cười vui cũng vẫy tay chào rồi ngài vào buồng lái đóng cửa lại. Máy bay khởi động chạy nhanh dần trên đường băng và cất cánh lên cao rồi liệng quanh trên bầu trời kinh thành Huế. Hai cô sung sướng vui cười nhìn quang cảnh toàn thành phố và cả những vùng ngoại ô thật rõ ràng tuyệt đẹp... Dòng sông Hương mơ mộng hiền hòa uốn mình lững lờ trôi về biển Thuận An. Núi Ngự Bình, đồi Vọng Cảnh, các chùa chiền, lăng tẩm cứ hiện dần ra trước mắt hết danh lam này đến thắng cảnh khác như những bức tranh khổng lồ kỳ diệu. Hai cô cứ xuýt xoa, thích thú chiêm ngưỡng cảnh đẹp ở Cố đô Huế một cách say mê nồng nhiệt cả tâm hồn. Một hồi lâu sau nhiều vòng bay lượn trên không ngắm cảnh mặt đất, nhà vua chuyển sang mục trổ tài thể thao cho dân chúng biết. Vua bảo hai cô chằng giây an toàn qua thân để vua đổi sang kiểu bay lượn khác. Thế là vua Bảo Đại bắt đầu lái máy bay về phía Nam đến núi Ngự Bình thì nhào lộn quay máy bay về phía Bắc kinh thành bay đến An Hòa và cũng cho máy bay lộn nhào, rồi quay về phía Nam đến núi Ngự Bình. Cứ như thế, nhà vua cho máy bay nhào lộn mới vài lần thì hai cô đã kêu lên vì chóng mặt bị say máy bay nên đã nôn tháo ra cả quần áo và bốc mùi chua thối ra trong khoang ngồi. Nhà vua thấy thế cũng lo cho hai cô liễu yếu đào tơ nữ sinh Đồng Khánh bị ngất xỉu, nên ngài cho máy bay liệng chậm dần rồi hạ cánh xuống sân bay. Nhà vua mở cửa dẫn hai cô xuống máy bay ra ngoài. Hai cô lúc này mặt mũi tái xanh như bệnh nhân đang ốm. Hai cô cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn cố gượng mỉm cười với nhà vua và cúi đầu đa tạ ngài rồi kính chào nhà vua để ra về.
Lúc đó người quản máy bay cười và nói:
“Hai cô đi thì thơm mà về thì thúi”. Chắc cũng vì nhà vua muốn lưu niệm một tình huống đặc biệt của thể thao cho các cô thấy và thử sức các cô…
N.H.T
(SH287/01-13)
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...