L.T.S: Đầu năm 1992 kiến trúc sư Tống Trần Phượng ở Sở Xây dựng tỉnh Hà Tĩnh trong khi khảo sát công trình dưới chân Đèo Ngang, đã đào được tấm bia khắc bài thơ của vua Thiệu Trị. Tác giả Trần Hữu Dinh đã chép lại toàn bài, phiên âm và dịch thơ. Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Ảnh: internet
Phiên âm:
Quá Hoành Sơn Quan
Nhất đới miên hoành hạn tiệt sơn
Uyển diên khởi phục, hải tân gian
Vệ Nam củng Bắc, phân nghiêm tấn
Lịch cổ lai kim, tác hiểm quan
Thôi lũy bất tu bình vãng sự
Trùng loan vi tín khả cao phan
Tiếp thiên nham thụ thanh nhi thúy
Bản lĩnh phi vân, khứ phục hoàn
Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật.
Ngự chế thị thất thủ.
Dịch nghĩa:
Qua cửa ải Đèo Ngang (*)
Một giải dăng ngang mút chấm hết. Vằn vèo như rắn biển chạy viền theo. Giữ Nam giữ Bắc có đồn binh trấn giữ. Suốt từ xưa đến nay dựng lên một cửa hiểm nghèo. Chuyện lũy đổ trúc xưa bàn làm gì nữa. Chỉ biết Truông cao ước với tay trèo lên. Liền trời cây ngút xanh xanh ngát. Lưng (nửa) núi mây bay qua lại, lại qua.
Dịch thơ:
Qua cửa Đèo Ngang
Một giải đăng ngang mút tận đèo
Vằn vèo chân núi biển viền theo
Gìn Nam giữ Bắc đồn biên trấn
Suốt cổ chí kim cửa hiểm nghèo
Chuyện lũy trúc xưa bàn chi nữa,
Truông cao những ước với tay leo
Liền trời cây ngút xanh xanh biếc
Lưng núi mây bay sớm lại chiều.
T.H.D.
(TCSH56/07&8-1993)
------------------
(*) Chữ “quan" là cổng nhưng nghĩa rộng là cửa ải, như ải Nam Quan, ải Chi Lăng.
HẢI KỲ
Phan Văn Chương - Nguyên Hào - Hà Nhật - Trần Nhuận Minh - Ngô Công Tấn - Từ Dạ Linh
TRẦN KHOA VĂN
VĂN CÔNG HÙNG
NGUYỄN HOÀI NHƠN
NGUYỄN LƯƠNG NGỌC
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG
NGUYỄN ĐỖ
Triệu Nguyên Phong - Nguyễn Văn Vinh - Lê Viết Xuân
Hồ Hồng Trâm - Tuyết Nga - Nguyễn Thị Thái - Dạ Thảo Phương - Bùi Kim Anh - Hàn Thi - Trần Mai Anh
ĐỖ THÀNH ĐỒNG
TRẦN HẠ VI
NGUYỄN HỮU TRUNG
LỮ HỒNG
KIM LOAN
ĐOÀN MẠNH PHƯƠNG
Lê Điểm - Nguyễn Văn Tài - Tăng Tấn Tài - Thy Nguyên - Trung Phong - Khét - Nguyễn Hạ
TRẦN NHẬT TÂN
ĐÀO PHƯƠNG
PHÙNG CUNG