Bà ơi...

08:08 12/03/2010
PHẠM NGỌC CẢNH                        Bút ký Sau này tôi mới biết cụ Đỗ Tất Lợi. Dành dụm mãi tiền sinh hoạt phí của một anh lính, tôi ra cửa hàng sách quốc văn. Mua một cuốn Nam dược... về đặt đầu giường như cái gối. Gối lên những kỷ niệm về cây, về lá để nhớ thương bà. Những trang viết về cây ngải cứu, cây thạch xương bồ, cây bồ công anh hay như những bài thơ. Những trang viết về củ nghệ, củ gừng, quả mướp đắng, trái me chua phúc dày như kinh Phật.

Bà tôi không viết thành trang. Bà cấy trồng vào tuổi thơ cháu một rừng cây lá. Tôi mang hết vào cuộc đời khi tuổi mới mười ba. Đó là mùa xuân năm 1947. Tôi đi làm liên lạc cho bộ đội Vệ quốc của Trung đoàn “ Trăm lẻ ba”. Bà tôi lặng lẽ chờ ngoài cổng. Dúi vào túi áo cháu đích tôn một miếng gừng, một nhúm hành hoa. Cái thứ hành hoa mà nửa thế kỷ nay tôi nghiệm ra là đặc sản của miền Trung nắng gió. Củ hành chỉ nhỉnh hơn hạt ngô lai. Thanh Hóa gọi là hành dăm. Hà Tĩnh quê tôi gọi hành tăm. Qua Đèo Ngang gọi là củ ném. Rồi cái tên cứ kéo dài dằng dặc với miền Trung. Với bà tôi, củ hành hoa ấy là thần dược.

Mùa đông năm 1946, Tây cai trị bị cơn bão Cách mạng Tháng 8 của ta quét giạt sang Lào. Chúng tự vẽ vời ra một thời cơ. túm tụm nhau lại phía Lạc Xao của Lào rồi theo quốc lộ 8 lấn về Hà Tĩnh. Chú tôi bị thương vào tay phải ở mặt trận Na Pê. Chữa lành vết thương ở Vinh nhưng sót một mảnh đạn ria bằng cái vẩy ốc vặn. Vẩy đạn nằm ở phần mềm giữa ngón tay cái và ngón trỏ. Về nhà ít hôm, chú tôi kêu nhức. Cả nhà bàn tính đưa ra Vinh. Bà tôi bảo “ Để đó cho tau”. Một thứ mệnh lệnh dứt khoát và nghiêm túc như bác sĩ chủ nhiệm khoa ngoại bây giờ.

Bà tôi giã nhỏ một nắm hành hoa. Âp vào chỗ ngón tay chú tôi có dấu cộm của vật rắn muốn tìm đường thoát ra. Sau một đêm, tháo băng ra. Quả là thần diệu. Cái vẩy đạn màu đồng được nắm hành kia lôi ra thật. Đó là ca phẫu thuật vết thương chiến tranh lần đầu tiên tôi thấy. Rồi tôi đi lính Vệ quốc. Rồi cuộc đời binh nghiệp dắt qua bao trạm phẫu tiền phương, qua các phòng mổ lớn ở bệnh viện tuyến cuối. Một chiến dịch như Tết Mậu Thân ở Huế, mắt tôi đã thấy hàng trăm mảnh kim loại được gắp ra từ trăm cơ thể của người lính. Vẫn không quên cái vẩy đạn được bà tôi rút ra bằng “ sức hút” của nắm hành hoa.


Cả đời người, chưa thấy ai gọi bà tôi là “bà lang” cả. Nhưng rõ ràng bà tôi và mảnh vườn mọc đầy cây lá là một trạm xá cơ sở. một bệnh viện tuyến đầu như đời nay vẫn gọi. Tôi không rõ xuất xứ cái nghề tâm phúc trong tay bà tôi. Tôi lớn lên sau Cách mạng Tháng 8, sớm bị nhiễm cái thói đi tìm xuất xứ mỗi cuộc đời ở chỗ tham gia phong trào cách mạng này, khởi nghĩa nọ mà quên tìm xuất xứ cái “ mát tay hay thuốc” của bà.

Bà tôi chỉ cho ông tôi trồng mấy khóm hoa hồng bạch trước cổng. Bà bảo “đó là thuốc”. Ba đời nhà tôi lớn lên ở vùng nắng gió bất kỳ. Lại nhờ bà mà coi khinh thứ khí trời khắc nghiệt ấy. Đứa nào hơi ho hắng vài tiếng, thấy đau cộm ở cuống họng là báo ngay với “bác sĩ bà”. Bà ngắt mấy cánh hoa. Bà mở hũ lấy vài cục đường phèn. Bà vắt kiệt nước một quả chanh vào. Cái chén thuốc ấy được hấp trên nồi cơm vừa cạn nước. Rồi uống, rồi khỏi. Nhưng tệ hại hơn cả là rồi quên bà. Rồi lớn lên thành người, rồi đi đó về đây. Chỉ chú mục vào thuốc viên, thuốc nước, tiêm chích đủ loại biệt dược mà quên dần thứ biệt dược nguyên sơ ở vườn nhà và bà tôi là người tế độ.

Vườn nhà tôi có dăm thước đất. Bà tôi trồng lên đó không chỉ là cây xanh mà trồng cả “ tâm thức giúp người”. Ông tôi là tay chơi và hay rượu. Bà tôi dành cho cả một khoảnh gia vị lá, củ để ngăn ngừa mọi thứ độc hại theo cái vui mà lẩn vào cơ thể. Bố tôi, các chú tôi là dân đá cầu, đá bóng. Bà tôi dành cho một cụm cây náng, một vạt hành hoa, một đám củ ấu Tàu. Mẹ tôi và các cô, dì được bà tôi dành cho nửa vườn. Này là bồ công anh, ích mẫu, ngải cứu... Và những tai họa bất thường không kiêng dè lứa tuổi nào là bà tôi trồng sẵn, cho mọc sẵn búi cỏ mần trầu, búi cỏ nhọ nồi, khóm dâu. Đặc biệt là phần thần tiên của cây, của lá dành cho cháu chắt, chút chít của bà. Bởi thứ gì mọc trên đất của bà đều dôn dốt chua, thoang thoảng bùi, phơn phớt ngọt. Đó là quà dỗ dành. Đó là thứ mà qua chuyện kể của bà, hoa quả trong vườn là cổ tích “ Ăn vào rồi mọc cánh bay lên”, “ Ăn vào rồi mạnh hơn Võ Tòng đả hổ”.

Tôi không sao quên được mùi vị, ước mơ trong chùm quả “ lồng đèn” của bà tôi mọc ở bờ rào. Trời ơi, lớn lên tôi mới biết trong thứ quả ấy có tố dược an thần, nuôi dưỡng thần kinh. Tôi ăn thứ quả ấy suốt tuổi thơ được ở cạnh bà, Và hơn sáu mươi năm nay, qua rất nhiều “mưa nắng” của khí trời, của nhân thế. Tôi ơn bà sâu nặng. Bởi tôi luôn biết vượt qua ngang trái bằng những bước bình tâm.

Bà tôi chăm sóc cả nhà, nuôi dạy con cháu bằng công việc siêng năng của một tài nội trợ. Trừ việc cúng giỗ trong nhà tôi không thấy bà tôi đi chùa, lễ Phật. Chỉ thi thoảng thấy bà tôi hướng về mặt trời. Nhà tôi ngoảnh về hướng đông và mặt trời lúc rạng đông còn dịu dàng tia nắng.

Tôi thấy bà tôi nhìn thẳng vào vầng sáng ấy mà lẩm bẩm điều gì. Không có hương khói, lễ vật gì. Chỉ như một cuộc đối thoại ngắn. Hay bà tôi cầu khẩn, van xin mặt trời một thứ gì. Nào tôi có rõ. Điều tôi tin chắc là không có ma thuật gì trong việc làm này. Vì đến cuối năm 1966, tôi cúi xuống vái lạy vĩnh biệt bà. Bà tôi vẫn lặng lẽ hiền từ như ngày dắt tôi đi hái thuốc dưới chân thành cổ của tỉnh Hà Tĩnh quê hương.


Chỉ một lần trong đời tôi. Tết Đoan Ngọ năm Bính Tuất. Sau những phong tục nhuộm móng, giết sâu bọ, gội lá thơm, bà tôi “ tuyên bố” dõng dạc:

- Năm ni (nay) thằng Cảnh tròn giáp, (tôi sinh năm Giáp Tuất) cho đi với bà.

Đúng ngọ, hai bà cháu lên đường. Giữa trưa tết mồng năm tháng năm âm lịch đố ai tìm ra con rắn trong bụi, con thạch sùng trên tường. Nắng khu Bốn vượt kết ngưỡng khắc bạc. Tưởng không còn cái vạch nào nữa của nhiệt độ để nắng leo lên. Bà tôi trao tôi cái nón.

- Đội cái ni (này) con.

Tôi chụp cái nón thay cái mũ và hấp hửng lên đường. Nhà tôi cách thành cổ một lạch nước phòng ngự của triều Nguyễn. Đã năm 1946, cổng thành mở rộng và cái bóng ông lính khố vàng đứng canh in vào nền trời đã bị xóa mất.

Cây lá quanh thành cổ mênh mông hơn vườn nhà tôi. Cây mọc từ mạch xây gạch đá. Cây mọc chật lối đi. Cành vướng tầm tay hái. Cứ ngan ngát một thứ hương hoa trong truyện kể hơn là sự hiện hữu trong đời. Bà tôi cúi xuống ngắt hái và gọi tên từng loài. Này thiên niên kiện, hoắc hương. Nghe như âm vang từ pho sách chữ nho mà ông tôi vẫn đọc. Này cam thảo đất. cỏ đĩ, núc nác. Nghe như cối xay, chày giã dân gian, mộc mạc trong xóm, trong phường. Như một thứ ví giặm Nghệ Tĩnh, bà tôi hát trầm trầm lời cảm tạ đất trời cho lộc trong đất, cho phúc trên tay.

Qua chỗ cỏ mọc lúp xúp, bà tôi ngồi xuống vuốt ve.

- “ Năm ni mọc tốt hè (Năm nay mọc tốt nhỉ). Nói với cây như với người. Bà tôi là vậy. Tôi chạy đến

- Cây gì đó bà ơi?

- Cây lọ nghẹ (Tiếng quê tôi lọ nghẹ là nhọ nồi. Đó là cây nhọ nồi).

Bà tôi giảng về cây. Có lẽ ở Đại học Dược cũng vậy thôi. Bà tôi bảo “ hái về, rửa sạch, giã nhỏ, vắt nước, uống. Cầm máu nhanh chóng mà vô hại”.

Sách của cụ Đỗ Tất Lợi dạy: “ Là loại thảo, mọc hoang. Thu hái, giã, uống, cầm máu. Không có tác dụng phụ...”

Chỉ khác nhau ở chữ dùng. Và khác nữa ở chỗ cụ Đỗ Tất Lợi là dược sĩ, là học giả. Và bà tôi là bà của tôi. Nhưng giống nhau như hai giọt nước. Đó là phát hiện ra báu vật trên đất đai nước mình.

Tôi hỏi:

- Sao lại gọi là lọ nghẹ hở bà?

Bà tôi ngắt lá, vò trên đầu ngón tay. Nước trong lá tứa ra, đen dần như một thứ nhọ nồi.

- Sao bà không hái lá này?

- Thứ ni dùng lá tươi. Thứ ni dễ mọc. Mùa nào cũng sẵn.

Tôi mới mười hai tuổi. Chưa thể nào cảm nhận hết sự chảy máu, cầm máu tai họa của kiếp người. Nhưng cây nhọ nồi thì tôi nhớ. Tôi mang theo cuộc đời đầy nắng mưa.


Tôi vào chiến trường năm 1967. Cài băng tang bà nội lên mép áo mà vượt Trường Sơn. Sống mấy năm trời trong căn cứ cấp quân khu. Sâu khuất mịt mù từng dặm núi.

Có một lần, đoàn văn công Quân khu đóng quân gần một chòm dân. Đó là mấy gia đình người Tà Ôi lên núi cao tránh bom đạn của giặc Mỹ. Mùa nắng năm ấy nghiệt ngã. Nhưng nghiệt ngã hơn là tự dưng trời đổ ập mưa rừng. Mưa cho đá suối bốc khói rồi nắng vụt trở lại. Cái nắng trở lại như than lửa rang giòn. Cả chòm dân đổ bệnh.

Tôi sang thăm bà con. Tôi dắt theo cô y sĩ của đoàn văn công và hai thầy trò lặc lè hai túi thuốc. Tôi hỏi cô y sĩ.

- Bà con bị bệnh gì?

- Chắc là sốt.

- Thầy thuốc sao lại nói “ chắc là!”

- Dạ...

Chắc nhà trường chưa kịp dạy đến bài này. Ngày ấy học lái xe có ba tuần là ra trận, là vào binh trạm, là vào Trường Sơn ngay. Giáo trình dạy cô y sĩ này chắc cũng rút gọn. Tôi vạch áo một chú bé. Lấm tấm trên da những chấm hồng. Ngỡ là muỗi đốt. Nhưng dày quá. Tôi hỏi cô y sĩ:

- Có phải sởi không?

- Dạ...

Cô y sĩ trẻ quá. Chưa yêu. Chưa chồng. Trường chưa kịp dạy bài vỡ lòng về khoa nhi trước khi thành cô quân y sĩ của bộ đội Trường Sơn. Đành dạ... dạ... ậm ừ.

Tôi cầm tay cô gái Tà Ôi có tên là Areng. Cánh tay trên đỏ bầm vì nốt đỏ mọc như kê vãi.

- Có thuốc cho bà con không? Tôi hỏi cô y sĩ.

- Dạ...

Lại dạ! Và lần này cô y sĩ thân mến của tôi hành nghề. Có đun nước tiêm. Có phát từng gói thuốc viên vàng, viên trắng.

Tôi lẩm bẩm “lá nhọ nồi”, “lá nhọ nồi” và da diết nhớ bà tôi.

- Nhọ nồi để làm gì ạ? Cô y sĩ hỏi lại.

- Không phải nhọ nồi trên bếp. Anh đang nói lá nhọ nồi. Có lá ấy chữa được bệnh cho bà con.

Tôi đã miêu tả tỉ mỉ thứ lá cỏ, thứ cây cỏ mà trong một lần Tết Đoan Ngọ tôi đã học được ở bà tôi. Cô y sĩ lần ra rẫy, lội về nương. Đi năm bảy suối về năm bảy rừng mà tìm không ra cây cỏ nhọ nồi. Tôi nói vui “Thuở bọc trứng trăm con của bà Âu Cơ. Năm mươi người con về biển có mang theo cây nhọ nồi để phòng khi mưa nắng. Năm mươi người con lên rừng, ỷ rừng muôn lá chẳng mang theo”.

Trận sốt xuất huyết ở chòm dân Tà Ôi có người chết. Xót xa vô cùng mà tôi bất lực. Tôi tìm không ra lá nhọ nồi.


Trong một chuyến về đồng bằng Thừa Thiên, tôi tìm ra “thần dược” ấy. Như có bà tôi từ cõi âm dẫn đường. Tôi hỏi dân “Có trồng được không?”. Dân trả lời “Ai dư hơi mà trồng cỏ!”. Dân lại nói “Chỗ mô mà nó không mọc được, cỏ hoang, cỏ dại mà chú”. Tôi toan đỡ lời “Vậy mà có nơi không mọc. Đó là chòm dân Tà Ôi, ở gần doanh trại văn công”. Dân nói “Chú cứ mang cả cây, cả già. Chú ném đại ra rìa suối”

Tôi làm theo lời dân chỉ bảo. Rồi chiến trận ào lên thành cái Tết Mậu Thân. Sau chiến dịch. Tôi rời chiến trường. Cứ mang máng ở rìa suối Ut, Ut gì đấy trên Trường Sơn cây tôi trồng đã mọc.

Một thứ tốt tươi như phúc lộc của bà tôi.

Năm cuối thế kỷ XX
P.N.C
(132/02-2000)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...