ĐỖ QUYÊN
1.
Du Tử Lê thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.
Ảnh: Internet
Ra hải ngoại ngay từ 1975, ông là cây bút cựu trào hiếm hoi vẫn còn viết hay cho đến ngày tháng chót. Từ lâu, đây cũng là một trong không nhiều thi sĩ có nhiều tác phẩm được phổ nhạc. Trong dư luận công chúng, cả bài thơ lẫn bài ca “Khúc thụy du” (1968) đã có thể thay tên tác giả.
Trong hàng chục năm qua, với thi lực sung mãn (và có phần nào chạy nhanh hơn Nàng thơ), chàng thi-tử họ Lê xuất bản sách gần như mỗi hai năm, để rồi cuối cùng lưu lại “ở chỗ nhân gian không thể hiểu” gần 80 tác phẩm ở nhiều thể loại. Tuyển tập “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” (2019) là thi phẩm cuối cùng; còn trong năm 2018, tại thành phố Hồ Chí Minh đã có 4 đầu sách được xuất bản và tái bản.
Ở tập “năm chữ du tử lê và, mười hai bài thơ, mới” (2010), thi sĩ thể hiện rất rõ sự càng thêm điêu luyện của mình khi giữ chắc âm nhịp làm cho ý tưởng và ngôn từ bay lên trong các thể thơ tự do mang tinh thần hiện đại và hình thức cách tân.
“em nhường tôi chỗ ngồi
mang theo mọi chú thích”.
(Bài bọc bên ngoài thảm kịch)
Kể từ đó, với câu thơ trên, “chỗ ngồi” không chỉ là nơi chốn địa lý; mà còn là chốn thơ!
Ra hải ngoại sau một thời gian viết trong lối cũ, Du Tử Lê đã kéo thơ hiện đại Việt cuốn vào thi pháp của riêng mình, và tạo ra những lối rẽ mới bằng cú pháp, ký hiệu, dấu… Nhiều khi làm khó chịu không chỉ các con mắt đọc thơ theo lối cũ.
Các dấu gạch chéo (slash) “/”, dấu gạch nối (hyphen) “-” , cách đặt dấu chấm, phẩy, không viết hoa tất cả các chữ, v.v... từng được “made by Du Tử Lê”. Hãy đọc chúng như các thể nghiệm lý thú!
Trích đoạn sau đây từ bài “chào năm mới ở garden grove, california,” nên xem như dấu ấn thơ đương đại Du Tử Lê:
“vẫn buồn (kép,)
chia đôi:
thiên đàng / địa ngục.
em chiếc nêm
chêm giữa - -
ngực đơm / môi /
triền thơ ấu nghiêng,
thiêng bầu vú mẹ.”
Không chỉ thân thuộc giữa cộng đồng người Việt ở trong và ngoài nước, Du Tử Lê là nhà thơ gốc Việt được giới thiệu nhiều nhất trong các trường đại học tại Mỹ.
Thơ họ Du đi với nhạc điệu như hình với bóng mà đó lại là tiêu chí đầu tiên của thơ Việt. Ngôn ngữ của ông đại chúng mà sang cả: già-trẻ, Tây-Ta, cũ- mới đều hiểu dù ít dù nhiều. “Tặng nhau chín ngón không đeo nhẫn”, “Ai nhớ ngàn năm một ngón tay” là hai trong nhiều câu thơ của ông mới nghe ta đã choáng và sẽ còn ngợp mãi. Không chỉ mỗi khi nghĩ đến những câu thơ đã có trên đời về… ngón tay.
Bài thơ “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” (1977) và trường ca “Mẹ và Biển Đông” (1989) là hai đứa con quý nhất mà tác giả trao gửi tiếng thơ mẹ Việt, trong ý nghĩa Du Tử Lê như một người thơ của tâm trạng di dân lớn lao.
Xét ở nhiều mặt, Du Tử Lê là một nhà thơ rất tiêu biểu cho thi ca hiện đại Việt Nam - một Việt Nam của chiến tranh và của tình yêu.
2.
Nhà thơ Trần Mộng Tú nổi tiếng trong thể thơ truyền thống với vần điệu ổn định qua các bài trữ tình đau đáu nỗi thương người thương thân.
Có cảm hứng dẻo dai, nữ thi nhân góp mặt liên tục trên hầu khắp báo chí hải ngoại và thành danh qua cuộc đời di tản ở xứ người.
Khác với đa số người viết theo phong cách và tâm trạng “chuẩn”, sự sống ở thi ca Trần Mộng Tú đến từ cái tâm thơ trẻ trung và sáng trong, cái mắt thơ sinh động và thông suốt trước các chuyện cũ cùng chuyện mới, chuyện Việt Nam cùng chuyện xa xứ. Nhờ thế chữ (nội dung, đề tài) ở mỗi bài dù cũ và quen được mang những nghĩa (tư tưởng, cảm xúc) mới và lạ. Lạ hóa, đổi mới nhẹ nhàng như không. Những bài thơ chưa hay, thường ở thể tự do, thì cũng lạ.
Nếu như ngày mai bỗng phục sinh tục lệ của 30 năm trước: chép thơ vào sổ tay, chắc rằng Trần Mộng Tú sẽ là tác giả Số 1 ở hải ngoại và có thể trong Top 10 của thơ Việt Nam đương đại.
Đây là đoạn kết của bài Tiễn Phạm Chi Lan, khóc thương người bạn văn vắn số mà tài năng, tâm huyết:
“Tôi gửi một giọt lệ
rơi trên lưng bàn tay
dẫu tay không với tới
cũng xót người hôm nay.”
Hay và lạ ở chữ “lưng”. Lưng bàn tay, mấy ai nổi viết thành thơ?
Trần Mộng Tú đã góp phần làm cho Thơ mới của thế kỷ trước vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” giữa thời hiện đại rồi hậu hiện đại. Xuất bản năm 2009 cuốn Thơ tuyển Bốn mươi năm của bà đã làm minh chứng!
3.
Nhà thơ Lê An Thế có tác phẩm “đầu tay” là Thơ Lê An Thế (2009), rồi cứ “thế” mà “an” nhiên mà “lê” đường thơ mới của mình cho đến hôm nay.
Đây là một trong các thi tập xuất sắc ở sự mới mẻ của thơ hải ngoại mà chúng tôi được biết trong mươi năm qua. Tràn ngập tâm thức hiện đại, nhà thơ đến thẳng với bạn đọc bằng cách nghĩ, cách sống của mình trong ngôn ngữ riêng.
Tập Thơ Lê An Thế có không ít bài mang kiểu nhìn bình dân trên nền tri thức, phàm tục trong đứng đắn.
Ở bút danh mới, tác giả không làm xấu hổ bút danh cũ từng náo hoạt văn học Việt ở nước ngoài thời hưng thịnh - khoảng năm 1995: Lê Bi! Ấy là bút danh từ ngày ông bắt đầu viết văn làm sách báo ở Mỹ. Lê Bi của thao thức thời cuộc, của phản biện lịch sử với sự ảnh hưởng từ Chế Lan Viên.
Mời độc giả thưởng thức toàn bộ một sáng tác của Lê An Thế được viết tại Nha Trang:
“Nghệ Thuật Ngồi Quán Một Mình
Có lúc tôi là một làn sóng một ngoại ngữ một cánh cửa
một phụ âm
qua góc quán này một người đàn bà vừa đi vừa nói vào chiếc điện thoại di động
tôi lại thất tình
với chiếc điện thoại di động
khi người đàn bà nhét nó vào túi sau quần jean
mang theo một cái mông đầy sóng
giữa những bức tường không chịu chết này
chúng ta đứng ngồi chồng chéo
tôi lại như một cái chìa khóa
đang thử cắm vào tất cả
mà vẫn giữ được sự cô độc của mình.”
Vancouver, xuân 2010 - thu 2019
Đ.Q
(SHSDB35/12-2019)
DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN
Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.
NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.
PHẠM PHÚ PHONG
Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.
Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".
Qua đi, với những hoa tàn tạ
Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
Victor Hugo*
Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".
Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.
Y PHƯƠNG
Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.
HOÀNG THỤY ANH
Mùa hè treo rũ
Trong cái hộp hai mươi mét vuông
Ngổn ngang màu
Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
Ngày lên dây hết cỡ
Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Lâu nay, đọc thơ của trẻ em, tôi thường có cảm giác, hình như các em làm thơ dưới ngọn roi giáo huấn mà người lớn thường giơ lên đe nẹt trẻ con. Cho nên khi cầm trong tay tập thơ Cái chuông vú của bé Hoàng Dạ Thi “làm” từ 3 đến 5 tuổi, tôi không khỏi ngạc nhiên.
NGHIÊM LƯƠNG THÀNH
Đọc xong Những đứa con rải rác trên đường, cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ 2014), thoạt đầu tôi có cảm giác trống vắng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Anh Cao Việt Dũng hỏi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?
CHÂU THU HÀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.
DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ
Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.
MAI VĂN HOAN
"Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…
Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.