TRỊNH SƠN
Có những người, hiếm thôi, khi đã gặp tôi thầm ước giá như mình được gặp sớm hơn. Như một pho sách hay thường chậm ra đời.
Nhà văn Hồ Anh Thái - Ảnh: internet
Nói là chậm, vì khi sách ấy chưa ra đời thì chẳng ai biết nó sẽ khởi sinh ra làm sao, khởi sự thế nào và hoàn tất bao giờ. Không cứ ai cũng dễ gần, cũng như đâu phải pho sách hay nào cũng ngọt ngào trôi chảy vào dòng tâm tưởng độc giả. Có khi, phải vật lộn với từng cú huých của họ, thậm chí, chịu đựng chính sức chịu đựng của họ. Thấm. Và bất khả kháng, muốn hay không, không thể tách rời hai phần cuộc gặp gỡ giữa ánh mắt ta và chân dung họ.
Hai trường hợp đơn cử cho mơ ước mãnh liệt kỳ lạ của tôi, một là Alfred de Musset của thế kỷ XIX. Người kia, là Hồ Anh Thái bây giờ. Dấu gạch nối thời gian giữa tôi với hai tên tuổi xa vời này có vẻ khác nhau, nhưng sắc màu thì không phân biệt được. Tươi rói hạnh ngộ. Sắc nét luận lý. Và, đầm ấm tình người.
Chính tôi cũng không hiểu, căn nguyên nào khiến mình mê mẩn dòng thơ mẫn cảm, dường như yếu ớt nhưng chẳng bao giờ cong cớn, lắt lẻo, gãy đổ của chàng thi sĩ đa tình nước Pháp? Và, tại sao tôi có thể yêu được tiếng chuông bản nguyện thanh thanh vọng vào tâm tưởng từ một nhà văn vốn dĩ khoác áo công chức, hẳn là nghiêm ngắn và lịch lãm kiểu Bắc?
Ba cuộc gặp gỡ Hồ Anh Thái ưu ái dành cho tôi đều diễn ra trọn vẹn trong bầu trời của một nhà văn đã công thành danh toại với một người đọc vô danh ưa phản biện.
*
Cuộc thứ nhất, Cõi người rung chuông tận thế. Trước đó, tôi có chiêm ngưỡng ông từ một vài truyện ngắn in rải rác trên báo chí và trong tuyển tập nào đó. Hầu như, ấn tượng. Nhưng, chưa rõ cái ấn tượng nó hình thù ra làm sao. Ừ, thì triết lý nhân sinh. Gã đồ tể, chị quét rác còn có nhân sinh triết lý nữa cơ, huống chi một nhà văn. Ừ, thì hóm hỉnh, sắc bén. Chữ ra chữ, đặc biệt thứ ngôn ngữ ông dùng biêng biếc tiếng Việt, ngay cả những thuật ngữ rất Tây, rất Thiền cũng man mác hương vị truyền thống. Truyền thống đúng nghĩa. Một thứ truyền thống tự thân, không cân đai mũ mão phong vương chia đất. Rành mạch mà vẫn kỳ ảo. Diễm ảo thì đúng hơn. Từ những truyện viết nơi xứ người, Mỹ cho đến Ấn, Âu, Đông sang Tây. Tả dân Mỹ bằng ngữ nghĩa cứ như hai miền Nam Bắc nước Mỹ thời nội chiến. Nghĩa là, đấu tranh và hòa hoãn - hòa bình chứ không nhượng bộ. Hồ Anh Thái làm nên một diễn văn Gettysburg bằng tiếng Việt, về sự khẩn thiết giữ gìn và phát huy tiếng Việt.
Nhiều nhà phê bình đã lý giải, chỉ có thể là tư tưởng mới làm nên một Hồ Anh Thái vững chãi như vậy. Giữa cơn bão táp ngoại lai và tự hủy của tiếng Việt thời kỳ đổi mới rồi hội nhập. Nhân vật, dù là một cô gái Mỹ, một nhà văn Hàn hay một vị sư Nepal - họ phát ngôn tư tưởng Việt Nam, bằng tiếng Việt Nam, tự nhiên đến độ hồn nhiên, chớ hề ngượng ngạo. Tôi bỏ được mấy phần cái ba lô Tây An nam xuống sông Tô Lịch từ những bài học nghiêm cẩn của Hồ Anh Thái. Ông dạy tôi tự trọng với tiếng nước mình, khi ông đang ở phương trời xa xứ lạ, nói ngoại ngữ, đọc sách người, kể chuyện đời.
Cõi người rung chuông tận thế đến sớm hơn nhiều, nhưng phải rất lâu tôi mới mon men đến gần. Hành tung của tác giả rành rành ra đấy, nhân vật lộ diện mồn một ra đấy, nhưng không phải qua tầm nhìn của một đôi mắt “đất sét”. Sain Pol Roux cho rằng: “Tạo hóa không cấm đoán ai muốn đi sâu vào những bí mật của nó vì tạo hóa chứa đầy những ‘khuyến cáo’ và ‘mật ước’ chỉ dành riêng cho những ai biết nhìn chúng ngoài đôi mắt bằng ‘đất sét’” (Sain Pol Roux, tác giả: Th. Briant). Nếu ai nói Hồ Anh Thái đang diễn tả Phật pháp là người đó chưa thực sự bước vào địa hạt “cõi người” đầy rung động tư tưởng, bĩ và trị bĩ mà nhà văn đã mở sẵn cửa đón nhận hết thảy kẻ nào muốn vào. Trong đó, nghệ thuật ảo diệu không bởi chi tiết, mà tinh túy chắt lọc từ tất cả chi tiết trình bày trên, trong và cả bên ngoài biên giới tác phẩm. Nghệ thuật không cơi nới, trái lại, mở toang thêm trăm phương ngàn hướng: nghệ thuật tự tâm, nghệ thuật diễn hành, nghệ thuật trì trí, nghệ thuật uyên nguyên… Tận thế, trong giới hạn nghĩ suy của tôi sau khi mò mẫm hỉ nộ ái ố trong từng tích tắc nhân vật và cốt truyện, là sự kiến tạo. Cỏ mọc mầm sau mưa. Hoa đào rơi trên máu kiếm. Hồ Anh Thái không nhận vai, nhưng đã và sẽ được người đời mặc định khi thì là samurai dũng mãnh can trường, lúc lại là thiền sư ung dung uyên áo.
Nghiên cứu Đông phương, nhưng dường như luận lý sách vở mềm mại theo nước theo gió Á châu không giữ nổi cả câu hỏi và câu trả lời Hồ Anh Thái đặt ra trong cõi người xúc xắc bĩ cực thới lai. Tôi có cảm giác, ông đã vẽ cây cầu nối hai bờ Đông Tây, tiếp bước và hoàn thiện công trình dang dở của những người đi trước.
Cây cầu ấy, bắc qua chén trà chát. Chát mà thơm, mà quyến rũ, mà thanh bạch - vượt át vị nồng cay tức tưởi của rượu mê.
Cõi người rung chuông tận thế, tích hợp đồng thời mâu thuẫn dữ dội lẫn dung hòa êm ái của Khổng, Lão, Mặc. Trước đó, trong cuộc lưu vong vô kỳ hạn, E. M. Remarque đã gắng kết nối Jesus, F. Nietzsche và S. Freud, nhưng có vẻ văn hào đã tự làm sụp đổ cấu trúc khát vọng (hy vọng và tuyệt vọng) của mình trong sự sụp đổ của nền văn minh Âu châu. Tôi tự tin nói theo giọng điệu của G. Gordon: Hãy để triết thuyết lụi tàn.
Cuộc gặp gỡ thứ hai, ở giữa. Trung tâm, không phải là thứ một mối quan hệ cần và đủ. Hoặc thiên bên này, hoặc vị bên kia. Dấu gạch nối chỉ là khoảng không, nếu mỗi đối tượng không hút (đẩy) đối phương bằng trường lực của chính mình.
Ảnh hưởng rõ rệt nhất của con người Hồ Anh Thái đến tôi, là sự mẫn cán và tinh thần trách nhiệm không tưởng tượng nổi. Ông công tác lúc nào? Ông nghiên cứu lúc nào? Ông sáng tác lúc nào? Vỏn vẹn hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, ông điều chỉnh, phân định ra sao để có thể trọn vẹn và hơn cả trọn vẹn - ngoài ra, còn thai nghén ít nhiều thời gian cho việc xã hội, cho gia đình, cho lớp trẻ, cho nhân tình thế thái?
Lá thư đầu tiên, chỉ là cầu may. Đã gởi hàng trăm tiếng động vào thế giới nhà văn, những con người tưởng chừng nhạy cảm hơn cả, bặt thiệp hơn cả, minh mẫn hơn cả - đặc tính của nghệ sĩ vẫn gắn liền với những mỹ từ như thế. Nhưng, hầu như tôi chỉ nghe tiếng vọng lại của chính mình từ vách đá vô cảm. Đá thế hệ, đá đa đề, đá lợi lộc, đá bè cánh… Trong ngày, tôi nhận được hồi âm của nhà văn Hồ Anh Thái. Và cứ thế. Có ngày, thư đi tin lại nhiều lần.
Cặn kẽ và tỉ mỉ. Thẳng thắn và bộc trực. Ông dạy cho tôi cách làm văn. Kiêu hãnh của một gã nhà thơ múa lửa với ngôn ngữ của tôi như quả bóng nổ dưới sức nóng mặt trời. Ông dạy tôi bằng bài học của tâm. Tâm nhà văn. Tâm nhà báo. Tâm phê bình. Tâm biên tập. Tâm tác giả và tâm độc giả.
Sửa một câu một chữ, ông đều tô đỏ nguyên văn và giải thích tại sao nên sửa và phải sửa? Sửa thế nào? Sửa làm sao cho văn chương ấy vẫn theo giọng điệu của đứa học trò biết sai chứ không phải giọng điệu lão luyện của một bậc thầy. Chợt nhớ, có vị biên tập nọ, bài thơ bảy nhân tám năm mươi sáu chữ của cộng tác viên thì sửa mất năm mươi chữ. Khi in ra, tác giả chỉ còn cái tên mà không thể nhận ra tác phẩm mặc quần áo mới của ai nữa.
Thi thoảng, gặp bức ảnh đẹp, bài viết hay, bản nhạc tuyệt - ông gởi cho tôi. Có lẽ không chỉ gởi cho mình tôi, mà còn cho nhiều người khác. Những điều tốt tươi qua mắt mình, ông không định độc quyền chiếm lấy và giữ lấy, muốn chia sẻ với hết thảy những ai có thể chia sẻ.
Những ngày không thư, tôi đoán ông đang ở trên đỉnh núi nào đó, trong vùng thôn quê hẻo lánh nào đó. Tắt điện thoại, internet và mọi thứ sóng nhân tạo. Chỉ còn lại sóng tự nhiên: sợi dây liên kết giữa tâm hồn con người với trời đất. Chữ sẽ đến, nghĩa sẽ đến như ánh sáng thuở hồng hoang. Không ám thị, không lấm láp tô vẽ. Một tác phẩm mới ra đời. Trong tận cùng nỗi cô đơn nghĩa đen, để đi đến tận cùng sự ấm áp và văn minh cõi người nghĩa bóng. Sáng tạo. Vâng, “sáng tạo trong cô đơn” đã trở nên một thuật ngữ máy móc và giả tạo được lặp lại, lạm dụng quá nhiều. Bạn không thể cô đơn, dù chỉ ở một mình với ghen tuông, uất ức, tỵ hiềm, than thở, mặc cảm, buồn vui ế ẩm. Bạn chỉ có thể cô đơn trong thức ngộ. Trên nền tuyết trắng, một mầm cỏ xanh um lên. Lẻ loi, đơn độc nhưng bền bỉ và mãnh liệt. Đó chính là sáng tạo. Thế giới sáng tạo bạn và bạn sáng tạo thế giới. Bạn sáng tạo chính bạn. Cuộc sáng tạo ấy là tác phẩm.
Chàng thanh niên thất tình “con sáo mái sặc sỡ” George Sand đếm nỗi cô đơn theo từng viên gạch lát hè phố Paris hoa lệ, làm nên ánh tình thơ để đời. Hồ Anh Thái đếm nỗi cô đơn trên số đếm làng mạc, xứ sở, đỉnh núi, con người ông trải qua từng ngày. Đức Phật, nàng Savitri và tôi - có lẽ đã ra đời trong cõi hoang sơ dịu dàng và nồng nàn như thế. Âm lọc âm, ảnh chọn ảnh. Lão nhà văn Hàn Quốc ngủ gật trước cử tọa như thế.
Truyện ngắn Tựa vào gốc anh đào mà ngủ, Hồ Anh Thái kể chuyện một nhà văn lão thành xứ kim chi, “không bao giờ nhận lời tiếp xúc với độc giả”, “khi người đọc phá vỡ quy ước của riêng ông, người đọc xuất hiện hữu hình, ấy là khi nhà văn thất vọng”, có câu thoại: “Cuộc đổ bộ của ta chỉ dừng ở chân núi, còn con, cuộc đổ bộ của con là phải ở trên kia, trên đỉnh núi ấy”. Tôi tin, Hồ Anh Thái cũng đang lặp lại sự ngủ ấy, cuộc đổ bộ ấy với chính mình và thế hệ tiếp nối.
Người nào dám nghĩ rằng mình, thân xác và tâm hồn, chỉ là một cái khuôn, một cái vỏ, một con búp bê rỗng ruột? Để rót đời vào. Để làm đầy chính mình. Nội tâm nhà văn là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ thứ ba. Ông gặp lại ông.
Không Diễn, không Sắp đặt, Không hơn gì nhau câu nói, Buông bỏ. “Bàn tay ta nắm được bao nhiêu chiếc lá, thì chỉ bấy nhiêu là đủ cho mình”. “Cái gì cần thiết mà đến một lúc nào đó cũng chẳng giữ được nguyên lành, hãy ý thức được quy luật và hãy buông. Người mà ta yêu mến, một ngày nào đó cũng ra đi, ta chẳng giữ được, hãy biết trước như vậy mà thanh thản, không níu giữ khóc lóc”.
Đi và cứ đi, hành trình của Sách mang theo. Một cuộc “tự thú”, bắt đầu bằng thế giới chân dung nhà văn bạn bè góc cạnh, sắc nét từ bên trong chứ không hề xanh đỏ tím vàng cầu vồng mạo nhận. Họ trở thành nhân vật của tôi - mỗi chân dung là một tấm gương, hơn hết, muốn hay không, tác giả soi mình vào. Dậy lên hương thơm của tấm gương, nếu có. Chứ không vẽ vời, không nặn tượng. Chân dung văn học là thể loại khó. Trước tiên, đối tượng có thật chứ không phải một nhân vật hư cấu thế nào cũng được. Nhưng, cứ kể lể xoành xoạch thì thôi văn vẻ gì nữa, đem máy ảnh tới mà chụp cái rẹt cho xong. Hồ Anh Thái ít viết chân dung văn học, nhưng ông là một trong số ít tác giả viết hay trong thể loại hương hoa này.
Chân dung của chính mình, là chân dung khó viết nhất. Cần sự can đảm, tự trọng và kiêu hãnh. Cần va chạm dữ dội và lắng đọng tuyệt đối. Cần ràng buộc với mọi hoàn cảnh phải có và cắt đứt, kể cả mối liên hệ cuối cùng. “May quá, mình đã qua tuổi sợ bóng tối và sợ ma” (Sợ độ cao). Thể loại tiểu luận và tản văn, ông gặp lại ông rõ rệt nhất. Ông không kể cho ai nghe cuộc gặp gỡ đầy thịnh nộ giấu sau vẻ giễu cợt, hóm hỉnh ấy. Tôi chỉ khéo tưởng tượng.
*
Tôi vẫn còn ước mình có duyên gặp Hồ Anh Thái sớm hơn. Tác giả Lời bộc bạch của đứa con thời đại, cũng thế. Cho đến nay, ông và tôi chưa bao giờ chạm mặt. Có lẽ, hình hài tai mắt mũi miệng chỉ cần thiết cho những người xem nó là tất cả.
Núi Dinh, Bà Rịa 20-25/11/2013
T.S
(SH302/04-14)
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.