Ấu Triệu Lê Thị Đàn và bài thơ tuyệt mệnh

15:05 05/09/2008
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

Trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi phong trào kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ ở Huế, có một người phụ nữ nổi tiếng thông minh, hiếu học và đảm đang đã tham gia hoạt động trong phong trào Đông Du, từng được cụ Phan Bội Châu viết đôi câu đối để tưởng nhớ:
“Tâm khả huyền ư thiên nhật nguyệt
Thân tàng giá dữ Việt giang sơn”

(Lòng trong sáng có thể treo cùng mặt trời mặt trăng
 Tấm thân kiên trinh đã gả cho non sông đất Việt) (1).

Người phụ nữ ấy là Lê Thị Đàn. Bà người xóm Chỉ, làng Thế Lại, tỉnh Thừa Thiên Huế, xuất thân trong một gia đình khá giả, có tinh thần yêu nước. Thuở nhỏ bà nổi tiếng về văn thơ, hiếu học nhưng do hoàn cảnh bị tù đày của cha vì liên quan đến phong trào Cần Vương, mẹ lại mất sớm, có nhiều mối lo toan vất vả, bà phải chấp nhận làm vợ viên thông ngôn của toà Khâm sứ Trung kỳ. Khi chồng đổi vào làm việc, bà không chịu đi theo, quyết ở lại chăm sóc cha và lo hương khói cho mẹ.
Năm 1903, cụ Phan Bội Châu vào Huế tìm đầu mối liên lạc với các nhân vật có tiếng ở kinh thành để chuẩn bị thành lập Duy Tân hội. Cụ đã được Võ Bá Hạp (1876- 1948) (2) tiến cử Lê Thị Đàn, vận động bà vào hội Duy Tân. Đây là nữ đồng chí đầu tiên mà cụ Phan kết nạp vào hội.
Trong suốt 7 năm hoạt động, bà đã cáng đáng nhiều công việc hệ trọng, là người làm cầu nối đảm nhiệm việc vận chuyển tiền bạc, thư từ, tài liệu từ Quảng Nam- Quảng Ngãi qua Huế rồi ra Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng để đưa ra nước ngoài cho những học sinh đang du học tại Nhật Bản. Có thời kỳ bà khoác áo cà sa để làm nhiệm vụ liên lạc giữa các cơ sở bí mật khắp Bắc-Trung-Nam. Bà được các đồng chí trong Duy Tân hội hết sức khen ngợi bởi tính cương nghị, trung tín, giỏi tài ứng xử trước quân thù.
Bên cạnh hoạt động ở hội Duy Tân, bà còn tham gia các cuộc đấu tranh chống lại sự chèn ép của nhà nước phong kiến và của thực dân Pháp. Năm 1908 Lê Thị Đàn cùng một số nhân vật trọng yếu ở Thừa Thiên - Huế như các ông Khoá Mãnh, Khoá Mộng (3) kêu gọi nhân dân tham gia phong trào kháng thuế; cùng nhân sĩ Nguyễn Đình Tiến cổ vũ học sinh bỏ trường thi trong kỳ thi khoá sinh ở huyện Hương Trà để phản đối chính quyền thống trị.
Năm 1910 bà bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn dã man nhưng vẫn không khai báo điều bí mật nào của hội Duy Tân. Bà đã tự kết liễu đời mình bằng một dải lụa trắng ở trong nhà lao, để lại một bài thơ tuyệt mệnh được viết bằng máu thấm đẫm tinh thần yêu nước, kiên trung bất khuất của mình:
I
Huyết khô lệ kiệt hận nan tiêu
Trường đoạn Hương giang nhật dạ trào
Ngô đảng tảo thanh cứu lỗ nhật
Phần tiền nhất chỉ vị nùng thiêu.
II
Trùng tuyền yểm lệ kiến Trưng Vương
Đề huyết thư quyên chỉ tự thương
Bằng tạ phật linh như tái thế
Nguyện thân thiên tý tý thiên sang.
III
Thê lương ngục thất mệnh chung thi
Hải khoát sa không khốc tự tri
Tử quốc đáo nùng thiên hữu phận
Thương tâm quan lũ kỷ nam nhi.

Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai dịch:
I
Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc
Trước nấm mồ em đốt bó nhang.
II
Suối vàng gạt lệ gặp Bà Trưng
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương
Lạy Phật, thân này còn hoá kiếp
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương.
III
Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình
Chết với nước non em tốt số
Chạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh. (4)
Bài thơ chỉ có ba khổ, được viết bằng chữ Hán, mang đậm tình yêu non sông đất nước, là bài ca về tấm lòng của người phụ nữ đã biết hy sinh thân mình cho dân tộc. Chính vì lẽ đó mà cụ Phan Bội Châu đã đặt tên cho bà là Ấu Triệu ( Bà Triệu nhỏ) để tỏ lòng kính trọng một tấm gương nhi nữ kiên cường. Cụ Phan Bội Châu đã viết về Ấu Triệu:
 “ Lọ là các cậu, lọ là ông
Ai bảo rằng thư, chẳng phải hùng
Miệng có chào lòng, quen sấm sét
Gan đành bỏ mạng, tiếc non sông
Dây lưng một giải bền hơn sắt
Nét máu ngàn thu đậm vơí hồng
Ai hỡi biết chăng thời chớ hỏi
Hỏi hòn đá nọ biết hay không” (5)

Am thờ bà Ấu Triệu Lê Thị Đàn được cụ Phan cho xây dựng nằm ở vị trí trang trọng trong khuôn viên của khu lưu niệm nhà thờ cụ Phan Bội Châu ở Huế.
T.N.K.P
(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

----------------------------
(1) Lê Thị Nhâm Tuyết, Phụ nữ Việt qua các thời đại. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 183
(2) Võ Bá Hạp (1876-1948) hiệu là Trúc Khê, tự Nguyên Bích, quê ở Bao Vinh, huyện Hương Trà, Thừa Thiên- Huế. Ông đỗ cử nhân, không ra làm quan, có lòng yêu nước thương dân, kết giao với các chí sĩ đương thời.
(3) Khoá Mộng: tên thật là Lê Đình Mộng, người làng Giạ Lê, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vốn là học sinh trường Pellerin (Huế). Ông học giỏi, thích nghiên cứu Tân thư, hoạt động trong Duy Tân hội của Phan Bội Châu.
(4) & (5) Được lấy từ sách
Danh nhân Bình Trị Thiên (tập 1) NXB Thuận Hoá, Huế, 1986

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA

    Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.

  • LÊ VĂN LÂN

    Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.

  • NGUYỄN MINH VỸ
                    Hồi ký

    Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.

  • LƯƠNG AN

    Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.

  • (SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

  • Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.

  • LÊ VĂN LÂN

    Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.

  • PHAN THUẬN AN

    "Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
    "Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
    "Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.

  • LÊ TIẾN DŨNG 

    Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.

  • ĐOÀN XANH 

    Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.

  • Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
                        Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)

  • Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi

  • Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một  đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.

  • Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn”  -  hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • VÕ SƠN TRUNG

    Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).

  • Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.