Minh họa: Internet
KURT KUSENBERG Áo xống của Rê-jin Ga-xpa không thuộc loại người kiếm ra nhiều tiền, nhưng có lợi tức. Anh còn có thể dành dụm ít nhiều, giá như người chị của anh đừng có thỉnh thoảng chọc vào quỹ tiết kiệm của anh. Người chị này, một trang tuyệt sắc, không ngừng hứa hôn mà chẳng kết hôn. Có thể là vì, phút cuối, bao kẻ rấp ranh ngần ngại lấy làm của riêng cho mình cái sắc đẹp dạt dào thế kia. Rê-jin để ra ba hôm, ít khi nhiều hơn, để nhỏ nước mắt cho đấng lỡ làng; kế đó, chị gạt nước mắt và đi tìm một anh chàng khác. Giữa lúc đó, chị nghĩ nhiều nhất đến bao nhiêu phương cách sắm sanh ăn mặc. Xuất hiện một mối nào mới là lập tức những ước ao của Rê-jin phồng lớn lên không lường nổi; cái gì mình đã có chẳng có nghĩa lý gì so với những gì mình hãy còn thiếu. Thế là Ga-xpa phải móc túi và, nếu chưa đủ, anh chỉ còn nước phải bán một món đồ đạc. Chúng tôi quen biết Ga-xpa nhằm vào cái phút anh ngắm nghía các thứ trong gian nhà khả dĩ đem về cho anh một món tiền. Hầu như anh không còn gì trong tay, bởi lẽ hơn một lời hứa cưới đã sa sẩy, và mỗi một lời như thế lại làm anh nghèo đi một nấc. Nhưng làm thế nào được? Anh cứ phải can thiệp để góp áo xống cho Rê-jin và, một lần nữa, một vị hôn phu nào đó sốt ruột chờ đợi để có thể rước giai nhân về nhà mình. Đưa mắt rảo xem tàng vật lưa thưa, Ga-xpa nhận ra rằng chuyến này mình phải chia tay với chiếc đồng hồ treo. Khổ tâm thật, vì chiếc đồng hồ được coi như có giá lắm. Phải nói rằng, trên lớp thùng bảo vệ máy, chễm chệ một con chim sắc màu rực rỡ khi nào báo giờ thì vừa hót vừa đập cánh. Nó báo giờ không phải bao giờ cũng đúng nhưng kẻ sành sõi thì hiểu rành rọt những gì con chim hót muốn ngấm ngầm diễn đạt. Như thế là chiếc đồng hồ phải đem đi bán vì lòng yêu Rê-jin. Không ai ngạc nhiên khi hay rằng chiếc đồng hồ, vì gắn bó với Ga-xpa y như Ga-xpa với nó, cho nên nó rắp tâm tự vệ. Ngay khi đã quyết định bán, Ga-xpa kinh ngạc để ý rằng chiếc đồng hồ càng lúc càng trở nên nhạt nét và trong suốt đến độ tia mắt anh hoàn toàn không gắn được. Anh ôm chầm lấy nó. Không nghi ngờ vào đâu được, nó rành rành ra đó và ngoan ngoãn để cho người sờ nắn, nhưng người hết nhìn thấy nó. Ga-xpa có toan tính nhẹ lời dỗ dành nó cũng bằng thừa. Nó thừa hiểu khó lòng đem bán một món hàng tàng hình và nó không nhượng bộ. Dĩ nhiên nó có thể buộc anh làm theo ý nó, giá như anh chưa nghe tin có một ông tên là Ti-ét định mua một chiếc đồng hồ treo có chim hót. Dẫu cực lòng phải gạ gẫm một món đồ vật khiếm khuyết một cách tai hại dường này, anh không chọn lựa gì khác hơn, bởi đám cưới Rê-jin ngày một gần. Tỉnh khô trước tiếng cười của thiên hạ ngoài đường nom thấy anh ôm một vật tưởng tượng, anh đi đến nhà ông Ti-ét, leo bốn tầng lầu và đứng trước tấm biển một cánh cửa đúng phóc địa điểm anh muốn đến. Anh xiết chiếc đồng hồ vào ngực như thể vĩnh biệt nó rồi bấm chuông. Bước chân tiến gần ra, cửa mở và một người đàn ông to lớn dị thường, râu màu hung, xuất hiện trước mặt anh. Ông là ông Ti-ét, Ga-xpa hỏi. - Phải, anh cần gì? - Tôi nghe ông muốn mua đồng hồ, đồng hồ có chim hót, vừa hót vừa báo giờ. - Đúng như thế, tôi có ý định như thế thật. Đồng hồ đâu rồi? - Tôi mang theo đây. Tiếc rằng tôi không đưa ra cho ông thấy được. Rủi là mấy hôm nay nó biến ra vô hình. - Không hề gì, con người khổng lồ thân mật bảo. Tôi lại thích hơn là khác, vì vật vô hình để đâu cũng tốt. Mời anh vào, để xem ta có thể ngả giá được không”. Ga-xpa theo chân người đàn ông râu hung vào một gian nhà bày biện tiện nghi và chứa đủ thứ đồ vật dị kỳ. Ngồi xong, ông Ti-ét động tính hiếu kỳ, chúi người hỏi: “Xem nào, xin anh trao nó cho tôi”. Ga-xpa ngại ngùng nhận lời. Ông Ti-ét cân nhắc món đồ vật tàng hình và hạ giọng: “Nó đây”. kế đó, ông nhắm mắt và sờ nắn chi ly chiếc đồng hồ. Sự khảo sát có vẻ khiến ông vừa ý; ông mỉm cười, chúi đầu về trước, cuối cùng nói: “Hoàn toàn giống y chiếc đồng hồ của tôi, trăm phần trăm chiếc ấy. Anh nên biết rằng quả tình tôi đã có một chiếc như thế này và chính vì thế mà tôi cố tậu cho được chiếc thứ hai. Kia kìa, nó đấy”. Ga-xpa theo dõi bàn tay nhấc lên và bắt gặp một chiếc đồng hồ trên cái tủ thấp nó giống chiếc của anh đến độ thoạt trông anh ngỡ là chính nó. Chưa chi tim anh đã đập dồn hơn, đã muốn lao mình tới vồ lấy vật yêu quý - vừa gặp lúc ông Ti-ét trịnh trọng đặt đồng hồ tàng hình lên bàn và nói tiếp: “Tôi cũng bị rủi ro, số là từ lâu con chim hót của tôi nó bặt tiếng. Tôi mặc sức dỗ dành nó bằng thích: nó không báo giờ nữa, nó õng ẹo, im hơi lặng tiếng. Anh thấy đấy, chiếc câm tiếng với chiếc tàng hình bổ túc cho nhau là tuyệt hảo, không có kỳ ngộ nào hơn. Anh ra giá bao nhiêu cho cái chiếc song sinh này?” Dù là phải chuẩn bị nghe câu hỏi vừa rồi, Ga-xpa vẫn thấy nó đặc biệt không nhằm lúc. Anh đang suy tính thì con chim bật ra và báo ba giờ chiều. Anh coi đó là dấu hiệu dự ứng, nói: “Theo tôi thì nó đáng giá 300 mác. - 300 mác? Ông Ti-ét nhắc lại. Không phải là vô lý lắm, có điều là bỏ ra ngần ấy tiền thì thấy nhiều. Thật tình tôi ngóng một số tiền không cao đến thế”. Ga-xpa nghĩ đến chị và chau mày. Ông nghĩ giá bao nhiêu? - 20 mác, là vì anh muốn rõ. Nhưng tôi không thích mặc cả, hạ mình làm cái việc đổi chác ti tiện. Đâu vào đó: ba trăm mác, không thêm không bớt. - Hãy khoan, Ga-xpa vừa nói vừa chìa tay ra trước mặt ông Ti-ét, nhưng ông này không đáp lại cử chỉ mời mọc. Ông nhìn chăm chăm anh, nói trong họng: - 300 mác, một món tiền lớn. Anh định làm gì với nó? Ga-xpa ngồi không yên chỗ: Tôi cần vì chị tôi muốn lấy chồng và trang phục chưa đủ. - Chị anh đẹp không? - Đẹp vô cùng, chị là người phụ nữ đẹp nhất theo tôi biết. - Đáng tiếc, ông Ti-ét bảo. Không phải đáng tiếc vì đẹp, mà vì chị đi lấy một người khác. Thật tình tôi cũng kiếm tìm một người đàn bà đẹp. - Ai cũng thế cả, Ga-xpa đáp. Sắc đẹp cuốn hút đàn ông. - Đã hẳn, đã hẳn. Người trần mắt thịt quả nhiên ao ước ít hơn. Nhưng với tôi thì không: tôi quyết lấy vợ đẹp. Chị của anh không chừng đúng là người cho tôi. - Biết thế nào là thế nào? Chính ông cũng không biết chiếc đồng hồ nó có giống như cái ý niệm của ông về nó hay không. Phút này đồng hồ nó vô hình giống như số tiền 300 mác mà tôi đang chờ. Ông Ti-ét thót người: “Anh đừng nói tới tiền khi trí tưởng của tôi hướng về người chị của anh. Anh nên cho tôi biết chị có thật sự nghĩ đứng đắn đến chuyện lấy chồng không đã. - Thật sự nghĩ đứng đắn?” Nãy giờ Ga-xpa đã muốn mình đang đi trên đường về: “Tôi muốn tin là như vậy lắm - nhưng ai biết được lòng người? Thường ta vẫn nghe nói đến những hôn lễ dở dang”. Một hồi chuông the thé cắt ngang câu chuyện. Người đàn ông khổng lồ đứng lên đi ra cửa. Ga-xpa kinh ngạc biết bao khi nghe ra giọng của Rê-jin ở bên ngoài, Rê-jin đang nóng nảy muốn biết em có mặt đó hay không! Lát sau, chị bước vào, nối gót theo là ông Ti-ét đang nhìn theo, tràn đầy ngưỡng vọng. Đôi má người thiếu nữ đẫm đầy nước mắt, nhưng sắc đẹp không vì thế mà suy tổn. Đang khóc Rê-jin sà vào đôi tay em, rên rĩ: “Hết rồi, Ga-xpa, lần này hết nữa rồi. Nó bỏ rơi chị, vì thiếu can đảm và chị chạy lại đây ngăn em đặt vào tay người lạ chiếc đồng hồ gia sản cưng quý nhất của em”. Trong khi Ga-xpa siết người đàn bà đau khổ và vỗ về rối rít thì mắt anh nhìn chằm chặp vào chỗ đặt chiếc đồng hồ tàng hình. Và ngay lúc đó ta có thể trông thấy rằng chiếc đồng hồ quái ác đang lấy lại hy vọng, vì mỗi lúc một trở nên hiển hiện. Giống như mũi tên chỉ hướng gió trên nhà thờ còn phủ sương, con chim hót nhìn về phía chủ nó. Ông Ti-ét góp lời: “Tất nhiên là tôi rút lại cái quyền mua của mình. Làm sao tôi có thể có ý nghĩ làm cho một phụ nữ đẹp như thế này vốn đã khổ lại khổ thêm?” Rê-jin buông Ga-xpa ra và nhìn con người khổng lồ bằng đôi mắt ướt: “Ông đúng là một con người thật tốt bụng. Phải chỉ có cách gì cảm ơn ông? - Tôi biết cách, ông Ti-ét nói nhỏ. - Cảm ơn thế nào ạ? - Bằng cách cho tôi được phép cầu hôn cô. Rê-jin làm như thể không nghe. Chị thấm những vệt nước mắt cuối cùng trên mặt, tươi tỉnh trở lại và nhích bước trong gian phòng. - Ở đây thật xinh xắn, thưa ông. - Nhưng tôi trơ trọi, trơ trọi lắm. Người đàn ông đáp. Người thiếu nữ dừng bước đứng trước chiếc đồng hồ bặt tiếng: “Ông làm mất lòng con chim hót vốn là người bạn trung thành chung sống với ông. - Một người bạn lặng lẽ chẳng có giá trị bao nhiêu. Từ ngày con vật bé mọn mất giọng, tôi không còn có dịp nghe âm thanh lạ nào. Rê-jin mỉm cười quay lại chiếc đồng hồ của Ga-xpa lúc bấy giờ trở lại hoàn toàn nguyên hình: “Tôi may mắn hơn ông. Tôi mà lấy chồng thì em tôi sẽ tặng tôi chiếc đồng hồ có con chim hót thật hay. Phải thế không, Ga-xpa?” Kẻ vừa được nhắc tên hí hửng lên tiếng: “Đúng thế. Nói cho ngay, đồng hồ này đã là của chị, vì tiền bán ra đã nhắm cho chị. Chị sử dụng nó lúc nào tùy thích”. Có một quãng im lặng ngắn, ông Ti-ét lợi dụng để trình bày ý kiến, ông nhìn chăm vào Rê-jin hỏi: - Cô định chừng nào lấy chồng? - Lúc nào tìm ra con người đúng theo tôi nghĩ. - Thế cái gì khiến cô không tin là tôi chẳng phải người đó? - Là vì tôi có biết ông gì đâu. - Nhưng tôi thì tự biết mình và tôi nghĩ là có thể trách nhiệm về mình. Tôi là người đi tìm một người đàn bà nhan sắc và là người không lùi bước trước nhan sắc, nhan sắc của cô cũng thế. Có tiền, có của cải, thêm vào đó có một trái tim biết yêu và đôi tay khỏe để bảo vệ cô. Cô còn muốn gì hơn nữa kia? - Tôi không muốn gì hơn, Rê-jin cúi mặt đáp. Đôi má phớt đỏ khi cô nàng day sang phía Ga-xpa: “Ý em thế nào? - Hai người nên đính ước với nhau vì sẽ không bao giờ diễm phúc như thế này nữa đâu. - Lời hay ý đẹp! Ông Ti-ét vừa buột miệng vừa vỗ đốp lên tủ, ngang sát bên chiếc đồng hồ câm tiếng, nhưng lạ lùng thay, nó chẳng hề hấn gì. - Tôi có quyền hy vọng chăng, thưa cô, cô là người tôi mến mộ? - Ông có quyền chứ, Rê-jin đáp và đăm chiêu mỉm một nụ cười, nhưng tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi làm sao mình có thể nhận lời nhặm lẹ thế này. Cái động mạnh đối với chiếc đồng hồ áng chừng đã sửa được chỗ hỏng bên trong nó, là vì con chim đổ ra đập cánh và cao giọng báo giờ. Điệu hót của nó vừa cất lên thì con chim của Ga-xpa cũng hòa theo, và khúc song ca ngân vang lảnh lót như chúc mừng cho lứa đôi. Đến đây chúng tôi xin phép kết thúc một câu chuyện đúng là có hậu về mọi phương diện. BỬU Ý dịch (16/12-85) |
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.