Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (04/10/1920 - 04/10/2020)
LÊ TUẤN LỘC
Ảnh: internet
Tuổi thơ tôi và tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Ngày bé, có hai con người đã trở thành mục tiêu tôi học tập và noi theo: Bác Hồ và Tố Hữu. Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hóa của nhân loại, đã được UNESCO vinh danh. Nhân cách Người quá lớn. Nhưng nhà thơ Tố Hữu, người đầu tiên đã ảnh hưởng cụ thể đến sự nghiệp thơ ca của tôi. Ngày ấy, tôi mới bảy tám tuổi, rất yêu thơ nhưng làng tôi ở Nông Cống, xa thành phố, làm gì có sách mà đọc, chưa nói thơ như là của hiếm. May sao, bố tôi về phép mang tặng tôi tập thơ Từ ấy. Tôi đọc thuộc rất nhiều bài nhưng thích nhất vẫn là bài thơ Từ ấy. Bài thơ Từ ấy ngắn như là một tuyên ngôn thơ, một tuyên ngôn sống có lý tưởng mà bố tôi đã giảng cho tôi nghe cho dù lúc đó tôi mới hiểu rất lờ mờ về lý tưởng, về cái Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Nhưng lý tưởng của Tố Hữu về Cách mạng, về con đường đi tới tương lai và cách sống là ảnh hưởng sâu sắc nhất thời ấu thơ, dù lúc đó tôi còn là một cậu thiếu niên, nhưng lý tưởng của Tố Hữu và Từ ấy đã đi theo tôi suốt đời:
Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nói thẳng
Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa
Bạn đời ơi! Ta đã hiểu nhau rồi
(Trăng trối - tập thơ Từ ấy)
Những câu thơ hừng hực tuổi hai mươi, sáng như chân lý, lý tưởng cách mạng đã ngấm vào hồn tôi.
Những ngày thơ chăn trâu cắt cỏ ở quê nhà Nông Cống, chiều chiều đi đón trâu về, tôi mang theo tập thơ Từ ấy để đọc và tôi đã thuộc lòng nhiều bài thơ trong tập. Tôi còn nhớ, lời giới thiệu tập thơ do nhà thơ Xuân Diệu viết dài đến 30 trang và chữ rất nhỏ. Sau này, tôi yêu Huế vì đã đọc thuộc lòng bài Quê mẹ với những câu nhớ nhung da diết quê nhà:
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Những câu thơ chứa đầy giai điệu nhạc Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng/ Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi... nó ám ảnh một đời thơ tôi.
Bài thơ Mẹ Tơm, tôi đọc những năm học cấp 3 cho tôi yêu một quê nhà Xứ Thanh của tôi. Phân tích bài thơ Mẹ Tơm, tôi đã được điểm cao nhất khi đi thi học sinh giỏi những năm 60 của thế kỷ XX. Vẫn là những câu thơ da diết kéo dài giai điệu nhạc: Hòn Nẹ ta ơi, mảng về chưa đó/ Có nhiều không con Nục con Thu/ Chào những buồm nâu, thuyền câu Diêm Phố/ Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù. Đến nỗi, khi mẹ tôi sinh em út Lê Thị Hương Thơm. Ru em Thơm, tôi đã ru thơ Tố Hữu.
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không Bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn...
(Bầm ơi)
Em Thơm tôi lớn lên, bảy tám tuổi, tôi đã dạy em đọc thuộc lòng bài thơ Bầm ơi, bài Ta đi tới. Rồi các con tôi ra đời, Lê Thanh Phúc, Lê Thị Mỹ Hạnh, tôi đều ru các cháu bằng thơ Tố Hữu.
Tôi cảm ơn bố tôi, cảm ơn tập thơ Từ ấy của Tố Hữu đã hướng tôi vào đời để những năm tuổi thơ tôi đẹp như một bông hồng tươi. Nhưng khổ nỗi, một mặt bố tôi rất thích tôi theo nghiệp văn chương, vì những năm phổ thông, tôi giỏi văn; nhưng mặt khác ông lại sợ tôi dấn thân vào văn chương như trẻ con chơi với dao. Ông cũng không muốn tôi đi theo văn chương đến trọn đời, ông sợ tôi khổ. Tôi mơ ước trở thành nhà thơ và học đại học tổng hợp Văn. Mơ ước không thành. Tôi học đại học Mỏ Địa Chất theo tâm nguyện của bố tôi để trở về quê nhà làm mỏ và gần mẹ tôi. Tôi không quên được những năm dạy bổ túc văn hóa cho công nhân mỏ Chromite Thanh Hóa. Tôi được phân công dạy văn. Một lần các trường thi bình giảng văn. Tôi đã chọn bài Cô gái sông Hương của Tố Hữu để giảng mẫu và thật bất ngờ, bài giảng mẫu ấy được giải thưởng. Cái giải thưởng nhỏ thôi, lúc ấy tôi coi là đã to và tôi vẫn nhớ mãi cho đến tận bây giờ. Những câu thơ ám ảnh và ấn tượng thơ có giai điệu như nhạc:
Trên dòng Hương giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo,
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương giang
Trăng lên
Trăng đứng
Trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Ngày nhà thơ Tố Hữu mất, 9/12/2002. Năm ấy, tôi đã vào Hội Nhà văn Việt Nam. Mình chỉ là học trò của những học trò nhà thơ Tố Hữu. Nhưng ngưỡng mộ ông mà tôi đi viếng. Tôi lọt thỏm như muối bỏ biển giữa những nhà thơ lớn có mặt trong ngày tang lễ nhà thơ Tố Hữu: Nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhà thơ Huy Cận, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Lê Đình Cánh, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Bằng Việt... Sân nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông rộng mêng mông nhưng hôm ấy chật ních người đưa tang. Ở Thanh Hóa, ngoài lãnh đạo tỉnh ra dự (nhà thơ Tố Hữu có thời gian 1946 là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa) còn có một đoàn bà con huyện Hậu Lộc, quê mẹ Tơm ra dự đám tang nhà thơ lớn. Quê nhà Quảng Điền, những tiếng Huế thân thương và đầm ấm giữa lòng Hà Nội. Và tôi bất ngờ thấy lớp lớp các đồng bào dân tộc ở Kon Tum, mang chiếc tù và to bằng bắp tay đi viếng nhà thơ Tố Hữu. những người dân Buôn Mê Thuột, áo dân tộc Ba Na có mặt ở sân nhà tang lễ Quốc gia. Nhìn thấy họ, trong tôi vang lên những câu thơ:
Núi hỡi từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm trường?
Tố Hữu hỏi núi và ý tưởng vượt ngục đã hình thành từ khi vào tù. Và:
Đường lên Đăk Sút, Đăk Pao
Đèo heo tút gió, cầu treo mặt gềnh...
Tôi yêu thơ Tố Hữu với những bài thơ phơi phới một niềm tin cho lý tưởng ngày mai. Vì yêu thơ Tố Hữu nên tôi yêu Huế. Và sau giải phóng, tôi đã đến Huế, quê hương của nhà thơ. Quê hương của những câu thơ:
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi
Tôi đã đi cùng dân vạn chài trên phá Tam Giang một trưa mùa Thu và đọc thơ giữa bao la trời đất, những câu thơ Tố Hữu, giai điệu đầy chất nhạc:
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò từ Vỹ Dạ, thẳng ngã ba Sình,
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh
Những người dân vạn chài chưa bao giờ nghe thơ Tố Hữu, tôi đã đọc lại lần hai cho họ nghe.
Huế chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu từ năm 2017
Yêu thơ Tố Hữu và lý tưởng cách mạng của ông, tôi yêu cả cái tên Quảng Điền quê hương ông và mơ ước cuối đời tôi thật đơn giản là được một lần đến thăm đất Phù Lai vẫn tốt cà. Và rồi tôi đã đến Quảng Điền. Tháng 9 năm 2019, tôi về Huế. Và chính về Huế tôi mới biết, ngay từ năm 2017, ở Huế đã chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu rất trang trọng (4/10/1920 - 4/10/2020) quy mô lớn như thế nào (Triển lãm sách, hình ảnh tư liệu về nhà thơ Tố Hữu; Thi tìm hiểu về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của ông; Liên hoan nghệ thuật quần chúng chủ đề “Đất nước anh hùng ca”; Phát hành tập thơ gồm các tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu viết về quê hương Thừa Thiên Huế và tổ chức buổi Tọa đàm ra mắt; Tổ chức Hội thảo đồng chí Tố Hữu với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế; Tổ chức Lễ dâng hương, đặt vòng hoa và khánh thành công trình Nhà lưu niệm đồng chí Tố Hữu. Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Tố Hữu, Đêm thơ Tố Hữu và chương trình nghệ thuật sẽ được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tôi đã đến thăm: làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, quê nhà thơ Tố Hữu. Bí thư Huyện ủy Quảng Điền Hoàng Đăng Khoa nói với tôi qua điện thoại về các di tích và nhà lưu niệm ở Quảng Điền làm tôi nảy ra ý định thăm nhà lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà ngày xưa khi Đại tướng đi chiến trường, nhà thơ Tố Hữu viết:
Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
Nặng tình đồng chí lại đồng hương
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường
Tôi phải cảm ơn cháu gái tôi, Hà Thu Hằng, người đã bỏ ra một ngày trời, lái xe để đưa vợ chồng tôi đi thăm Di tích khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, thăm làng Phù Lai, quê nhà thơ Tố Hữu. Mảnh đất Phù Lai, địa linh sinh nhân kiệt, còn lại những câu thơ:
Mà đất Phù Lai vẫn tốt cà
Mà quýt Hương Cần ta vẫn ngọt
Hôm ấy tôi đến Phù Lai. Nhà xưa đã dỡ đi, nhà mới trong khu tưởng niệm còn chưa dựng. Cạnh đó, căn nhà cháu ruột nhà thơ Tố Hữu đã xây lên hai tầng khang trang. Ngoài kia, những bề bộn công trường, chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu, năm 2020. Tôi không để ý những bề bộn ấy, những bề bộn để chuẩn bị cho một năm tới, quê xưa của nhà thơ Tố Hữu đẹp như xưa. Nhưng tôi chú ý ngoài vườn xưa, giữa hai cây khế, người mẹ trẻ đang nằm ru con trên võng bằng chiếu cói ngày xưa. Đứa bé chắc là chưa đầy 3 tháng tuổi. Giọng ru ngái ngủ, lặng dần trong chiều đất Phù Lai:
À ơi... ru con con ngủ cho muồi
Nước non chưa gánh, mẹ ngồi mẹ ru
Cô gái là cháu hay chắt nhà thơ Tố Hữu, tôi không cần biết, nhưng giọng ru Huế xa dần, nhỏ dần làm tôi nhớ người xưa, một nhà thơ tài hoa và trong sáng trọn đời.
Thơ Tố Hữu đã hòa vào dân gian
Những năm tuổi thơ, tôi vẫn nhớ tiếng ru con trưa hè của bà Đăng ở xóm Trại nhà tôi, xã Tân Khang, Nông Cống:
Bầm ơi có rét không Bầm!
Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy Bầm run
Chân lội xuống bùn, tay cấy mạ non.
Tôi lại nhớ tiếng ru của chú họ tôi, ông Lê Thanh Điệc, ru con vào một đêm Đông. Tôi đến sân nhà chú. Tiếng ru văng vẳng trong nhà, nghe một lần mà tôi nhớ đến trọn đời:
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mãi sau này, lớn lên, đi học cấp ba tôi mới biết những câu thơ ấy là trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu.
Một lần, nói chuyện qua điện thoại với tôi, ông Nguyễn Công Mịch, Nguyên Bí thư Huyện ủy Sơn Dương, nói: Trong các nhà thơ thế hệ trước, tôi yêu quý nhất Tố Hữu. Khi sắp mất, ông đã tặng bạn bè bài thơ ngắn, sâu sắc như một quan niệm sống ở đời. Rồi ông đọc qua điện thoại:
Sống là cho, chết cũng là cho.
Thế là Tố Hữu đã để lại cho người đời tất cả triết lý sống trong sáng của mình để rồi thanh thản ra đi. Nghe thế đủ biết, thơ Tố Hữu đã hòa vào dân gian.
Người đời vẫn nhớ thơ Tố Hữu
Những người đã nghiên cứu về thơ Tố Hữu, đã sống với nhà thơ Tố Hữu, đều nói về thơ ông những lời sâu sắc. Đọc bài Ánh sáng của chân lý và hương hoa trên đường thơ Tố Hữu (GS Hà Minh Đức - Tạp chí Hồn Việt, số 146, tháng 4/2020) viết: “Người đã đi xa nhưng còn để lại cho đời một di sản văn hóa đặc biệt là thi ca, những bài thơ là chấm son điểm tô cho từng giai đoạn của cách mạng, những đài thơ kỷ niệm cho những sự kiện vinh quang của đất nước”. Giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định một lần nữa sự nhất quán về quan điểm sống và viết của nhà thơ Tố Hữu rồi.
Ông Nguyễn Đình Hương, Nguyên Phó Ban thường trực Ban Tổ chức Trung ương, Nguyên Trưởng Ban Bảo vệ chính trị nội bộ, người bạn làm việc 40 năm với nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ Tố Hữu quyến rũ tôi một phần thì phong cách sống của ông làm tôi say mê gấp mười lần. Một con người sống giản dị, hòa mình, không phân biệt đối xử...”. (Tạp chí Hồn Việt, số 148, tháng 6 năm 2020, trang 74).
Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng, đã nói về thơ Tố Hữu: “Nói đến văn thơ là phải nói đến anh Tố Hữu, những câu thơ chúng tôi thích nhất và cho là tuyệt tác. Đấy là những câu thơ đến bây giờ chúng tôi vẫn nhớ:
Dậy mà đi
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần”
(Dậy mà đi, trong tập thơ Từ ấy. Tạp chí Hồn Việt, trang 20, số 150, tháng 8 năm 2020).
Ngày 27/7/2020, trong lễ tri ân những người mẹ Việt Nam anh hùng, khi nói về công lao của những người mẹ Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc hai câu thơ Tố Hữu, trong bài thơ Bầm ơi:
Con đi đánh giặc 10 năm,
Không bằng khó nhọc đời Bầm 60
Thú thật, ngồi trước màn hình, tôi rất xúc động khi nghe hai câu thơ ấy. Như vậy, từ đêm đông năm 1960 ở quê nhà, nghe chú họ Lê Thanh Điệc ru con: Lòng ta ơn Bác đời đời/ Ngược xuôi đôi mặt một lời song song... (Việt Bắc) đến ngày 27/7/2020 đã là 60 năm Thơ tố Hữu vẫn sống trong lòng người, thơ ông đã thành dân gian.
Tôi mãi mãi ngưỡng mộ một con người, sống trong sáng và thơ cũng mãi trong sáng như lý tưởng của ông, Từ ấy, trong tôi bừng nắng hạ. Câu thơ đã gần một thế kỷ và người cũng đã về thiên cổ gần 20 năm. Cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, nhà thơ mới thốt lên:
Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ tặng bạn đường, tro bón đất
Sống là cho, chết cũng là cho.
(Tạm biệt, năm 2002).
Và tôi nghĩ, tư tưởng lớn của nhà thơ Tố Hữu đã làm ông nhẹ lòng thanh thản ra đi.
Nhà thơ Tố Hữu, thế mà đã trăm năm!
Hồ Linh Đàm, Hà Nội, 20/8/2020
L.T.L
(SHSDB38/09-2020)
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.