NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
"Trước lúc lên đường" - Ảnh: ĐÀO HOA NỮ
1. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, có một định nghĩa về Anh hùng: là người khác với mọi người về hành động phi thường hoặc có tầm cỡ lớn lao của lòng dũng cảm. Và nội dung Anh hùng ca được giải thích: phản ảnh những sự kiện lớn có ý nghĩa lịch sử trong đời sống một dân tộc, một quốc gia qua đó khẳng định lý tưởng nguyện vọng của nhân dân, của thời đại.
2. Xin bắt đầu bản Anh hùng ca này bằng lời kể của ông Lê Đức Tài:
- Năm 1954, tập kết. Tôi ở lại, là bí thư Đảng ủy xã Phú Đa. Địch khủng bố dữ dội bằng chính sách tố cộng. Bám đất, gian khổ, đói. Tôi bệnh. Năm 1957 được đưa ra Hà Nội chữa bệnh khỏi. Cuối 57 tôi vào lại chiến trường.
Lúc này các cơ sở đảng của ta đã bị phá hết. Trắng tay. Có thể nói là không còn ai. Để trở lại đồng bằng, ban cán sự Đảng ủy Phú Vang được thành lập gồm ba người: Tôi, anh Trân, anh Đống. Ba người thành lập một chi bộ. Tôi là bí thư.
Biết các cơ sở cách mạng tan. Cá bị tách khỏi nước. Địch cho dân lên rừng làm nghề sơn tràng. Lợi dụng tình hình ấy, chúng tôi tìm được ba người ở Phú Đa: ông Đặng, ông Ba, ông Dư. Tuyên truyền cách mạng cho họ rồi kết nạp ba người vào Đảng, tại Khe Vàng. Ba người ấy là chi bộ vùng sâu. Nhiệm vụ của họ là móc nối cơ sở ở địa bàn, xây dựng phong trào, chuẩn bị đón thời cơ.
Sau địch đánh hơi phong trào cách mạng rục rịch trở lại, chúng cấm tiệt dân đi rừng. Chúng tôi mất liên lạc. Ban cán sự nhận định "Các đồng chí ở Phú Vang mất liên lạc nhưng vẫn hướng về Đảng, hoạt động cho Đảng". Từ nhận định ấy, chúng tôi khẳng định: dù trong vòng o ép của địch, dân vẫn chờ cách mạng về.
Nghị quyết của ban cán sự là nguy hiểm mấy cũng phải về bám dân. Tôi thông thuộc Phú Đa hơn cả, nên về trước.
Tôi đi theo hướng Thủy Tân. Đi theo kiểu sâu đo. Đến thôn Tô Đà, làm hầm bí mật ở, rồi đi tiếp. Lúc nào trên lưng cũng có lương thực cho 15 ngày, cơm rang 3 ngày, có lò xô, dầu lửa và mang theo cả miệng hầm bí mật làm sẵn.
Đi tiếp. Đến Phú Đa, làm hầm bí mật giữa đồng. Đi với tôi có đồng chí Chiến. Hai anh em bàn nhau: Đến Phú Đa rồi, người ta sẽ bắt liên lạc là ai để chắc thắng. Bắt liên lạc lầm, mất đầu như chơi.
3. Nhà chúng tôi chọn là nhà ông Vương Hoán. Xưa, gia đình ông Hoán là người trung kiên. Đã có 4 người hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, tin được. Đêm sáng trăng nên địch chủ quan lơ là cảnh giác hơn.
Vào nhà, tôi gặp ngay Vương Hoán. Cầm tay ông, và bấm đèn pin vào mặt mình, hỏi:
- Ngó xem tôi là ai? Tài đây. Tài ở trên rừng về đây. Nhận ra chưa?
- Tau nhớ rồi.
Tôi tắt đèn, kéo ông Vương Hoán ra đồng rơm ngồi:
- Hôm nay tôi được Đảng phân công về đây giao trách nhiệm cho đồng chí.
- Trách nhiệm gì? - Ông hỏi.
- Trước tiên bảo vệ anh em tôi.
- Được! Được!
Chúng tôi ở trong buồng chị Lành, con gái ông. Đêm sau ông Vương Hoán huy động cả vợ con làm 1 hầm bí mật cho chúng tôi ngay trong nhà, 1 hầm ngoài bờ ruộng, 1 hầm ngoài đồng.
Chị Lành giúp chúng tôi liên lạc với anh Đặng. Đêm sau chúng tôi qua buồng anh Đặng ở, cũng làm thêm hai cái hầm bí mật.
Lửa cách mạng Phú Đa được nhen lên.
Chi bộ Đức Thái được thành lập. Nghị quyết ghi rõ: "tiếp tục xây dựng cơ sở cách mạng trong lòng địch, làm hầm bí mật để đưa người về bổ sung cho phong trào".
4. Gia đình ông Vương Hoán có hai anh em. Ông và người em gái của ông là Vương Thị Phi. Tất cả vợ chồng con cháu của các gia đình vô danh, nghèo túng như hầu hết các gia đình vô danh Việt Nam đều một lòng một dạ với cách mạng. Bởi làm người dân mất nước trăm bề khổ cực lắm rồi hai chữ Độc Lập trở thành khát vọng. Đúng như lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
Lòng khát vọng độc lập của họ thế nào thì chính máu xương của họ làm minh chứng.
Có thể kể thật tóm tắt ra đây:
1. Gia đình ông Vương Hoán:
- Bản thân ông Vương Hoán là liệt sĩ.
- Trong 6 người con thì 5 con là liệt sĩ.
- 2 người rể là liệt sĩ.
- 8 cháu là liệt sĩ.
2. Gia đình bà Vương Thị Phi:
- 1 con rể là liệt sĩ.
- 3 con là liệt sĩ.
- 4 cháu là liệt sĩ.
- Trần Phong, con trai bà là anh hùng lực lượng vũ trang.
* * *
5. Để đánh giá gia đình ông Vương Hoán một cách tương đối đầy đủ, ta có một danh mục đại cương như sau:
+ Một gia đình có 6 bà mẹ được Nhà nước tuyên dương danh hiệu: "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng":
- Mẹ Trần Thị Định
- Mẹ Vương Thị Lành (con gái)
- Mẹ Phan Thị Thể (con dâu)
- Mẹ Phan Thị Vũ (con dâu)
- Mẹ Vương Thị Phi (con gái)
- Mẹ Trần Thị Lùn (cháu ngoại)
+ Một anh hùng lực lượng vũ trang: anh Trần Phong.
+ 24 liệt sĩ. Trong số 24 liệt sĩ này, thì 22 người đang ở độ tuổi thanh niên.
Không thể kể ra đây hết! Nhưng mỗi người là một tấm gương hy sinh anh dũng tuyệt vời.
Bà Vương Thị Lành bị bắt đi tố cộng. Trước khi đi, bà mở nắp hầm bí mật nói với anh Lê Đức Tài: "Chúng bắt tôi đi học, để giữ thể hợp pháp, tôi phải đi. Nhưng anh cứ tin tôi. Dẫu có chết, tôi không bao giờ phản Đảng". Bà gọi con đến dặn: "Tau đi học, mi ở nhà lo cơm nước, đậy nắp hầm, cảnh giác cho các chú cẩn thận". Quả nhiên bà giữ đúng lời hứa. Chúng đánh đau quá, về nhà, bà chết.
Ông Vương Hoán xây hầm bí mật cho cán bộ ngay đống rơm nhà mình. Chúng phát hiện, bắt ông khai báo, ông chịu chết, không hé răng một lời.
Chị Vương Thị Xoa, du kích thôn Đức Thái, trong chiến đấu, bị địch bắt. Chúng trả thù bằng cách thay nhau hãm hiếp chị. Chị Xoa đã cắn lưỡi tự vẫn để giữ khí tiết của mình.
Ông Võ Ngạn bị bắt đày ra Côn Đảo. Hai lần vượt ngục, hai lần bị bắt lại. Chúng đã giết ông trong nhà tù.
Vương Thị Sen là y tá. Địch càn, anh em mình bị thương nhiều. Không kể bom đạn, chị xách túi cứu thương đi băng bó cho từng người. Máy bay trực thăng lượn trên đầu, chị vẫn không rời đồng đội, chúng xả súng bắn chết chị khi đang băng bó cho thương binh.
Anh Vương Hưng làm thợ may ở đường Thuận An. Nhưng thực chất anh là biệt động thành, là quận ủy quận 6. Bị vây ở Nhất Đông, anh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
Anh Trần Vượng thường vụ huyện ủy huyện Phú Vang, bị phát hiện hầm, không chịu đầu hàng, cùng đồng đội đội nắp hầm, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Chị Võ Thị Em, chống càn, cây súng của chị dũng cảm, hết nã đạn vào kẻ thù trên bộ, lại khống chế trực thăng trên không. Khi chị chết, chiếc trực thăng đã hạ cánh tại chỗ cắt vú chị mang đi...
Còn anh hùng lực lượng vũ trang Trần Phong, người chiến sĩ an ninh gan dạ, là chiếc cầu nối tuyệt vời, là hoa tiêu tuyệt vời đưa bộ đội thọc sâu vào giữa thành Huế, đặc biệt là trận diệt 300 sĩ quan Mỹ ở khách sạn Hương Giang. Làm cả lũ giặc kinh hoàng.
6. Tôi nhớ trận đánh Mỹ đầu tiên: Trận Núi Thành. Chưa hiểu Mỹ thế nào. Ta chuẩn bị ba cơ số quân. Nghĩa là gấp 3 lần số lính Mỹ đóng đồn Núi Thành. Nếu thê đội một chết, thì thê đội hai thay, thê đội hai chết thì thê đội ba thay. Ba chọi một. Quyết tìm cách đánh Mỹ.
Đến Nguyễn Viết Xuân, anh khẳng định: "Đế quốc Mỹ không có gì đáng sợ. Nhằm thẳng quân thù mà bắn".
Rồi chị Út Tịch tuyên bố trang nghiêm: "Còn chiếc lai quần cũng đánh".
Ở Thừa Thiên, trong kháng chiến chống Mỹ, một nhà ba anh hùng: Hồ Vai, Kăn Lịch, A Nun.
Còn gia đình ông Vương Hoán, 6 bà mẹ anh hùng, 1 anh hùng lực lượng vũ trang, 24 liệt sĩ. Tôi không đi nhiều, không hiểu ở các địa phương khác có nhiều gia đình như vậy không. Dẫu sao, đây cũng là bằng cớ của ý chí độc lập, để người Mỹ hiểu thêm rằng: Vì sao nước Mỹ giàu và mạnh thế lại thua ở Việt Nam.
Riêng tôi, tôi gọi gia đình ông Vương Hoán là "Bản anh hùng ca đất nước".
7. Bữa tôi về thăm bà mẹ anh hùng Việt Nam Phan Thị Vũ. Bà già, tóc bạc trắng. Bà quên nhiều. Nhưng rất nhớ bữa nhà bà bị cày ủi. Rơm rạ, cây cối chất một đống. Bữa ấy từ chỗ dồn dân về thăm nền cũ, có gì động đậy trong đống lá. Khi bới ra, Bà thấy một anh cán bộ bị thương. Hai mẹ con vội đắp kín cho anh, rồi về đem thuốc thang, cơm nước tới nuôi nấng, chăm sóc anh. Đến khi anh khỏi, mẹ đưa trả anh về đơn vị.
Tôi hỏi mẹ:
- Mẹ còn nhớ anh ấy không?
Mẹ đáp:
- Nhớ chứ. Thằng Thiêng mà. Bây chừ hắn làm Trưởng phòng chi đó trên huyện.
- Anh ấy về thăm mẹ luôn chứ?
- Đâu có. Từ đó nó đi. Đi thẳng luôn.
Tôi giật mình tưởng nghe nhầm. Không sao hiểu nổi tại sao lại có những con người vong ơn đến thế...?
8. Tôi có được xem trên họa báo Liên Xô (cũ) một tượng đài 7 con chim xoè đuôi bay theo cùng một hướng. Đó là đài kỷ niệm một bà mẹ Liên Xô đã hiến dâng 7 đứa con của mình cho cuộc kháng chiến chống phát xít Đức. Thật là niềm kiêu hãnh và lòng trân trọng. Gia đình ông Vương Hoán, 24 liệt sĩ, 6 bà mẹ anh hùng, một anh hùng lực lượng vũ trang, biết đâu chẳng là một tia chớp xúc cảm cho một đề tài tạo hình của một nghệ nhân nào đó, để nói với cháu con sau này về cái giá máu xương mà thế hệ chúng ta đã trả cho độc lập tự do. Chứ không phải độc lập tự do ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống.
9. Chúng tôi rời cây súng chưa lâu và chúng tôi thường nguyện sống sao cho xứng với máu xương, đồng đội, nhân dân mình đã đổ xuống suốt 30 năm chiến tranh gian khổ và ác liệt. Dù thế nào chăng nữa cũng không được quên nhân dân của mình. Bác Hồ chẳng đã nói đó sao: "Không có nhân dân thì mình làm được gì". Điều đó nói mãi rồi. Đã cũ. Nhưng lúc nào cũng rất mới. Như ngọc càng rửa càng sáng vậy.
N.Q.H
(TCSH85/03-1996)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.