NGUYỄN NGỌC PHÚ
Tùy bút
Tôi tin rằng trong đời mỗi con người ai cũng qua quãng thời ấu thơ nghe tiếng ru của mẹ trong cánh võng “ầu ơ”; cứ thế mà lớn lên mà trưởng thành.
Ảnh: internet
Cánh võng ấy, lời ru ấy theo ta đi suốt cuộc đời lặn vào trong tâm thức để trên đường đời có lúc chênh chao, có lúc hẫng hụt, có lúc vô phương hướng thì nhịp võng ru ngày ấy cân bằng ta lại, định vị ta và hướng tâm ta về với cội nguồn, mạch nguồn. Đó là điểm tựa vững chãi ngàn đời, là bầu sữa nuôi lớn tâm hồn, nhân cách ta về lẽ sống làm người. Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết rất hay rằng: “Mẹ ru cái lẽ ở đời - Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn - Bà ru mẹ… mẹ ru con - Liệu mai sau các con còn nhớ chăng”. Mẹ ơi! Mai sau chúng con vẫn luôn nhớ những trưa hè ở đồng quê thôn dã, ngoài vườn lũy tre xanh kẽo kẹt vít võng thì trong nhà, dưới mái hiên nhà cánh võng tre đan bằng liếp tre có những thanh giằng bằng tre cũng đưa võng kẽo kẹt. Cái tiếng kẽo kẹt êm ả đều đều ấy như một khúc biến tấu, khúc nhạc đồng quê đưa con vào giấc ngủ. Và trong giấc ngủ bềnh bồng mơ màng bay bổng ấy có cả tiếng sáo diều vi vu; Tiếng sáo hay tiếng gió, tiếng gió hay tiếng đồng, tiếng đồng hay tiếng người từ trong hồn cốt quê kiểng mà thăng hoa, mà dào dạt lan tỏa mà ân tình biết mấy! Đó như là một “Căn cước văn hóa” ghi dấu, ghi nhận một cách nhuần nhị tự nhiên và an nhiên, cứ thế mà chắt chiu, cứ thế mà gạn lọc thành ca dao, thành dân ca, thành điệu thức, thành điệu hò xứ sở. Vâng, mai sau chúng con không thể nào quên được cái tiếng võng kẽo kẹt mà người lính thi sĩ Hữu Thỉnh khi trên đường hành quân mắc võng dưới mái tăng “Bầu trời vuông” đã nôn nao thổn thức, một tâm trạng của người lính thuần Việt ra đi từ cánh đồng của mẹ, ăn hạt gạo mẹ cấy, mẹ gặt. Và ông đã thốt lên: “Nằm trên võng cứ thèm nghe tiếng võng”, võng bạt dây dù thút thít mắc chặt vào thân cây không phát ra tiếng động ông lại nhớ tiếng võng tre quê nhà, thật ra, thi sĩ nhớ tiếng võng mẹ ru hồi thuở nhỏ. Không biết ai là người nghĩ ra cánh võng, dù võng bạt trang bị thứ quân trang không thể thiếu trong ba lô người lính là “chiếc giường di động” trên đường hành quân. Cánh võng ấy mang theo hình ảnh người lính “Ngủ rừng trong đội hình đánh giặc” với tư thế “Người nằm nghiêng, súng cũng nằm nghiêng” trong thơ Nguyễn Đức Mậu. Các binh đoàn ra trận mang theo cánh võng bên mình: “Cùng mắc võng trên đường Trường Sơn - Hai đứa ở hai đầu xa thẳm - Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật). Và “Bài ca bên cánh võng” một bài hát của nhạc sĩ Nguyên Nhung thật da diết, thật lãng mạn bay bổng với tiếng suối tiếng rừng: “Dừng chân bên suối võng đưa - Nhìn trời cao trong xanh lồng lộng - Bông hoa rừng thơm ngát phải đất nước cho ta - Mẹ yêu con gửi tình trong hoa bát ngát”. Cái chất lãng mạn cách mạng mà yêu đời đó cũng là một sức mạnh tiềm tàng tiềm ẩn bắt đầu từ lời ru ngọt ngào từ điệu hát dân ca…
![]() |
Minh họa: BÍCH THÚY |
Nhiều lúc tôi tự hỏi: Ai đã dạy bà, dạy mẹ câu hát ru mà hay đến thế! Không ai dạy cả, đó như là một nguồn mạch tiếp nối thế hệ một cách tự nhiên và vô hình những giai điệu nhẹ nhàng sâu lắng ân tình đắp bồi nuôi dưỡng những tâm hồn con trẻ qua gạn đục khơi trong. Từ ngàn đời những hình ảnh thân thuộc của quê hương như: bến nước, con đò, đêm trăng, cầu treo lắt lẻo, cánh cò bay lả bay la... được kết thành lời ru ngọt ngào trìu mến quyện vào tiếng võng đu đưa tạo thành một hợp âm phức điệu nhẹ nhàng êm ái mà sâu lắng ân tình đưa con vào giấc ngủ, đưa con vào giấc mơ. Lời ru bao giờ cũng thân thiết trìu mến; nghe tiếng hát ru trẻ thơ cảm nhận được sự yêu thương, nâng niu của bà, của mẹ của chị đó như là sự vỗ về ấp iu. Đó như là những bước đệm tạo đà vươn tới; đó như là sự truyền năng lượng sống tích cực lạc quan, là sự tin cậy gửi gắm. Lời ru như là tri thức sơ khai giàu hình ảnh thực tế cụ thể mà lấp lánh óng ả chuốt vàng những sợi tơ lòng dệt nên tấm thổ cẩm muôn sắc màu, muôn cung bậc góp phần định hình tính cách tâm hồn trẻ thơ. Qua nhịp võng đung đưa bình thản, bình an và lời ru xao xuyến da diết, lòng nhân ái được hình thành, trẻ thơ biết thương yêu ông bà, cha mẹ, anh chị những người thân trong nhà rồi rộng lớn hơn ra cả xã hội, cả thiên nhiên quanh mình - Đó là cái đẹp cái thiện ban đầu. Cũng có lúc lời ru như nốt trầm sâu thẳm, như cánh võng chùng xuống. Ru con mà nói hộ lòng mình, ru con để mình tĩnh tâm, ru con để mình cân bằng lại bao chênh chao đường đời: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài mẹ thức đủ năm canh”, hay: “Con cò lặn lội bờ sông - Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Lời ru có lúc thắt lại lưng chừng nhưng không bao giờ ai oán, không bao giờ trách cứ, không bao giờ trách phận mà cứ bát ngát, mở ra bao hy vọng, mở ra bao ước mong. Đó là sự nhìn nhận với đức khiêm nhường, là sự vị tha bao dung nhân ái kể cả khi: “Gió đưa cây cải về trời - Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”. Có thể con trẻ chưa hiểu hết ý nghĩa sâu sắc của lời ru nhưng qua nhịp võng, nhịp ru, qua bàn tay khi nhanh, khi chậm, qua dáng người và đôi mắt nhìn vời vợi của mẹ, qua sự giao cảm, linh cảm giữa huyết thống, trẻ thơ phần nào đã tiếp nhận, đã giao cảm được cái âm điệu, cái âm thanh cái hơi thở của cuộc sống, cuộc đời đưa em vào cõi mộng mơ như phù sa dòng sông đắp bồi mùa màng cây lúa. Giai điệu “ầu ơ…” như một “chiếc vé khứ hồi” trên chuyến tàu đưa ta về với tuổi thơ trong lời ru thao thiết biết mấy ân tình với sự đắp bồi thương yêu: “Ngày nào em bé cỏn con - Bây giờ em đã lớn khôn thế này - Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy - Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao”.
Những lời hát ru mang đậm bản sắc đồng quê luôn bắêt đầu bằng chữ: “Ầu ơ… ơi… trâu ơi ta bảo trâu này - Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta - Cấy cày vốn nghiệp nông gia - Ta đây, trâu đấy ai mà quản công”. Có thể coi âm thanh tiếng hát ru bổng trầm tha thiết là quốc hồn, quốc túy của người Việt Nam. Mỗi vùng đất có những lời ru khác nhau nhưng điểm chung là nhịp ngân nga êm dịu, trầm bổng, thiết tha, tiết tấu nhẹ nhàng sâu lắng. Lời ca mênh mang giàu hình tượng so sánh trực giác, trực cảm mô tả một thế giới, giao cảm một thế giới nhỏ bé vô cùng - Thế giới của con và mẹ. Tôi đã từng viết những câu thơ về mẹ tôi mang thai tôi ngỡ như phi lý nếu tính theo chuẩn xác của thời gian vật lý nhưng lại rất có lý về thời gian sinh lý: “Đêm mẹ mang thai tôi - Đêm chín tháng mười ngày - Mười ngày dài hơn chín tháng - Đêm trở dạ bọc tôi vào tã lót - Xé từ mảnh buồn trong chầm chậm màu nâu”. Mẹ mang thai tôi, đứa con của biển trên con thuyền sóng biển đưa nôi. Cái nhịp sóng đầu đời ấy cùng vị mặn mòi mồ hôi nước biển đã ngấm vào tôi thành giai điệu, thành tiết tấu cho thơ tôi sau này bởi ngày ấy: “Nhúm rau thai của tôi không chôn kịp góc vườn - Mẹ đã ném cả đầm đìa xuống biển - Mái chèo bắt đầu biết lật khúc “Ầu ơ…””.
Theo các nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian trong các loại hình thì hát ru ra đời sớm nhất. Hát ru là một loại hình dân ca mang bản sắc văn hóa đặc trưng có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam, những ca từ mộc mạc đời thường lưu truyền qua các thế hệ bằng hình thức truyền miệng. Câu hát ru miền Bắc là sự nhẹ nhàng, mơn man tinh tế, sẻ chia như tính cách con người thủy chung sâu sắc: “À a a a.. ơi... Con ơi con ngủ cho mau - Cha còn mải miết đồng sâu chưa về”. Còn người miền Trung lại mở đầu: “Ầu ơ…” thật da diết ẩn trong đó là những khát khao ước mong mở ra mênh mang: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh - Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Câu hát ru của miền Nam thường bắt đầu từ “Ví dầu” nghe sao ngọt lạ: “Ví dầu cá lóc nấu canh - Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm” toát lên sự man mác thiết tha phóng khoáng bao dung của các điệu lý, câu hò sông nước đồng bằng sông Cửu Long châu thổ. Những bà mẹ miền núi địu con trên vai chập chùng: “Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng” (Nguyễn Khoa Điềm) và lưng mẹ nhấp nhô theo bước núi đồi là nhịp võng đầu tiên đưa con vào cuộc sống. Lời ru còn mang theo những tên làng, tên xã, phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Việt ẩn chứa những bài học tiền nhân dạy.
Nhiều lần về thăm quê Bác ở làng Sen (Kim Liên - Nam Đàn) tôi thường đứng lặng bồi hồi rất lâu bên cánh võng đung đưa của mẹ Hoàng Thị Loan từng ru Bác Hồ những làn điệu dân ca. Cạnh đó là bộ khung cửi dệt vải đã lên bóng thời gian mà sau này một kiến trúc sư tài hoa đã cấu trúc thiết kế phần mộ của thân mẫu Bác Hồ cách điệu như một khung cửi dệt vải. Chắc tiếng võng lời ru ngày ấy của mẹ đã truyền cho Bác những bài học yêu thương đất nước giống nòi con Lạc cháu Rồng đầu tiên. Con sông Lam, dòng sông dân ca bắt đầu từ lời ru của mẹ trên cạnh võng đầy thân quen thấm vào Người nguồn mạch văn hóa dân gian, dân tộc để đến với văn hóa bác học, văn hóa nhân loại. Sau hàng chục năm bôn ba nước ngoài trở về Tổ quốc thân yêu, Bác vẫn không quên được lời ru, câu ví dặm của quê hương; Bác đã sửa chữ “nước” thành chữ “nác” cho một nghệ nhân khi đoàn dân ca Nghệ Tĩnh vào Phủ Chủ tịch hát cho Người nghe trong câu: “À ơi! Ai biết nác sông Lam răng là trong là đục - Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh - Thuyền em lên thác xuống ghềnh - Nước non là nghĩa là tình ai ơi”. Trong những ngày mùa thu lịch sử cách mạng ta càng nhớ ơn Người - Vị lãnh tụ thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới và càng “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn” (Tố Hữu). Trong sáng như nguồn mạch ca dao, dân ca, lời ru điệu hát từ “Ầu ơ cánh võng”…
N.N.P
(TCSH404/10-2022)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...