Âm nhạc dân tộc Việt Nam trong đời sống hiện đại

10:30 01/07/2009
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

(Ảnh: nguoivienxu.vietnamnet.vn)

Chúng ta đều biết, không ai có thể phủ nhận được giá trị lịch sử, giá trị nhân văn của nền âm nhạc dân tộc, bởi vì không có nó, dân tộc sẽ không thể vượt qua khỏi đêm trường nghìn năm Bắc thuộc, không thể vượt qua những khúc quanh cam go, khắc nghiệt của chiến tranh nối tiếp chiến tranh và lịch sử dựng nước và giữ nước của dòng dõi Lạc Hồng. Đó là các làn điệu hát ru, hát đồng dao, hát giao duyên, hát mừng nhà mới, mừng được mùa... của 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S (Việt Nam). Đó là các giá trị quí hiếm của sân khấu Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Huế, các lối hát Cửa đình, Hầu văn, Quan họ, các điệu Hò - Vè - Ví - Lý đặc sắc của mỗi vùng đất, đã tạo nên vẻ đẹp lấp lánh, hun đúc nên hồn thiêng dân tộc. Đó chính là ý chí Việt Nam, tâm hồn Việt Nam qua mọi thời đại, qua mọi thăng trầm mà vẫn giữ được cốt cách của chính dân tộc mình.

Nói như vậy để thấy rằng: Trong xu thế toàn cầu hoá, hoà nhập và mở cửa hiện nay, một mặt chúng ta có điều kiện giới thiệu bản sắc văn hoá nghệ thuật Việt Nam với bạn bè thế giới, mặt khác, nhiều trào lưu tư tưởng nghệ thuật, nhiều dòng âm nhạc tràn vào nước ta bằng nhiều hình thức, dưới mọi góc độ, và nhìn chung, chất lượng audio - vidio đều tốt hơn chúng ta, giá thành lại hạ. Đây chính là một thách thức với âm nhạc dân tộc và những người làm công tác âm nhạc tâm huyết với di sản nghệ thuật của cha ông.

Vậy phải làm thế nào để gìn giữ vẻ đẹp của âm nhạc dân tộc trường tồn với thời gian, đồng thời, vẫn tiếp thu được những tinh hoa của âm nhạc thế giới để làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Tất cả đều phải xem xét trên góc độ hiện thực của đời sống hiện tại một cách chi tiết, cụ thể, ngõ hầu mới mong tìm được một lối đi khả dĩ để dư luận và công chúng chấp nhận được.

2. Về đối tượng thưởng thức.

Phải nói rằng, đa số thanh thiếu niên - lực lượng thưởng thức đông đảo của xã hội lại ít mặn mà với âm nhạc dân tộc, ngược lại, họ rất sành các bài hát tiếng Anh của trong các trào lưu âm nhạc Rock - Jaz - Pop đang thịnh hành hiện nay. Điều này cũng dễ hiểu, vì trong đời sống hiện đại, các giá trị truyền thống của "Văn hoá Làng" ngày một rơi rụng theo sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Như vậy, nếu nhìn nhận một cách phiến diện, người ta dễ lầm tưởng giá trị của đời sống hiện đại, tỷ lệ nghịch với các chuẩn mực văn hoá, đạo đức truyền thống dân tộc. Bởi vì rất hiếm khi bắt gặp cảnh Mẹ hát ru con, Bà hát ru cháu, lại càng khó tìm hơn những trò chơi diễn xướng dân gian, mà ở đó, thanh niên nam nữ tìm hiểu nhau qua các làn điệu dân ca trữ tình, thâm thuý của cha ông để nên duyên chồng vợ... Thậm chí, các thiếu phụ ngày nay không biết hát ru (có người còn ru con bằng cassette), và như vậy, chính họ đã đánh mất đi phần tâm hồn thiêng liêng nhất trong thiên chức làm mẹ của mình.

Có phải vì âm nhạc dân tộc không hay, không hợp "gu" thời đại, không phù hợp với tâm sinh lý tuổi trẻ, khó phổ cập trong đời sống hiện đại? Hay vì thiếu một chính sách, một phương pháp khả thi?

Là những người làm công tác âm nhạc, chúng ta có quyền tự hào về vốn liếng âm nhạc dân tộc mà cha ông chúng ta để lại. Vì ở đó có đầy đủ các chuẩn mực nghệ thuật làm cho người nghe rung động, đầy đủ các thể loại cho từng lứa tuổi cảm nhận, có tiếng nói riêng, đặc trưng riêng của ngôn ngữ âm nhạc dân tộc Việt Nam đối với thế giới. Và các dân tộc khác sẽ hiểu Việt Nam một phần qua âm nhạc dân tộc đầy bản sắc của chúng ta. Như vậy, âm nhạc là tiếng nói thiêng liêng của giống nòi Lạc Việt, là sự sinh tồn, hưng thịnh của ngày mai. Vậy mà sao thế hệ trẻ hôm nay lại ít thích, thậm chí có người còn không biết. Đây thực sự là hồi chuông cảnh báo cho tương lai của nền âm nhạc dân tộc chúng ta. Sở dĩ có thực trạng như vậy là vì sao?

- Thứ nhất: Chúng ta chưa nhất quán và triệt để trong các giáo trình và phương pháp giảng dạy âm nhạc ở các trường phổ thông, các trường đạo tạo chuyên nghiệp; Số giờ cho âm nhạc truyền thống còn ít, số lượng bài bản âm nhạc dân tộc còn khập khiễng, chưa phù hợp.

- Thứ hai: Trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo viết... chúng ta truyền phát, đăng tải các bài hát mới, các ca khúc tiếng Anh yêu thích (điều này rất cần), nhưng lại thiếu chương trình dạy các bài bản dân ca hay và đặc sắc của Việt Nam, thiếu các chương trình truyền thông, diễn giải về vẻ đẹp của âm nhạc truyền thống trên các phương diện như cấu trúc hình thức, ca từ, hoà thanh, hoà tấu dàn nhạc, và các phương thức diễn trình ca nhạc dân gian...

- Thứ ba: Chúng ta chưa thường xuyên khuyến khích các hoạt động văn hoá ở làng, cùng các lễ hội, diễn xướng dân gian, là những nét đặc trưng văn hoá cội nguồn, mà nhờ đó, dân tộc chúng ta mới tồn tại và phát triển.

3.Về đối tượng gìn giữ - bảo tồn.

Có thể nói từ đề cương văn hoá văn nghệ năm 1943, Đảng ta đã rất chú trọng đến vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt là từ khi đất nước mở cửa trong chính sách đổi mới, các giá trị văn hoá dân tộc đặc biệt được chú trọng dưới góc độ xã hội hoá, trong đó có âm nhạc.

- Trên phạm vi rộng, âm nhạc dân tộc vẫn được lưu giữ và phát triển trong dân gian bằng các phương pháp truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề bởi các nghệ nhân.

- Trên phạm vi hẹp, âm nhạc dân tộc được bảo tồn do các nghệ sỹ, diễn viên chuyên nghiệp ở các đoàn ca múa nhạc dân tộc, các viện nghiên cứu, các khoa âm nhạc truyền thống ở các Nhạc viện...

Tuy nhiên, công việc gìn giữ, bảo tồn âm nhạc dân tộc trong cơ chế thị trường hiện nay là cực kỳ khó khăn, đặc biệt trên nhiều phương diện như trình độ chuyên môn, sự tâm huyết, gắn bó với âm nhạc truyền thống và cuối cùng là vấn đề kinh phí! Mặt khác, âm nhạc dân tộc chúng ta luôn luôn có tính dị bản, do lưu truyền bằng phương thức truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề; bài bản, làn điệu lại mang tính khuyết danh, do hình thức sáng tạo dân gian tạo nên, không có tác giả, tác phẩm cụ thể. Mặt khác, lối ký tự âm nhạc dân tộc đến nay vẫn chưa thống nhất và định hình (ghi theo chữ nhạc Hò - Xự - Xang - Xê - Cống; hoặc ghi note theo kiểu phương tây). Hơn nữa, chúng ta chưa khai thác hết khả năng của các nghệ nhân về các bài nhạc, bản đàn dân tộc, tuổi tác của các nghệ nhân nay đều đã quá cao. Cái "kho tư liệu sống" đó, nếu chúng ta không khai thác nhanh, khai thác khéo, sẽ là một thiệt thòi lớn cho nền âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Một thực trạng khác cũng không lấy gì làm phấn khởi, đó là các đoàn ca múa nhạc truyền thống, cũng như sân khấu Tuồng - Chèo - Cải Lương - Ca kịch hàng năm vẫn phải sống theo kinh phí bao cấp của các hội thi, hội diễn, còn doanh thu thì có mấy người xem? Trong khi đó, để tìm được một kịch bản hay, tìm được một diễn viên giỏi đâu có dễ dàng gì!.

4. Về đối tượng kế thừa - sáng tạo.

Đây chính là công việc của các nhạc sỹ sáng tác - lý luận và đào tạo, công bằng mà nói, trong những năm qua đã có nhiều nhạc sỹ thực sự tâm huyết, trăn trở với âm nhạc dân tộc. Trên lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc dân gian phải kể đến các nhạc sỹ: Tô Vũ, Lê Yên, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Thụy Loan, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Nhung, Dương Viết Á... Trên lĩnh vực sáng tác dựa trên cơ sở khai thác chất liệu dân ca, dân vũ phải kể đến các nhạc sỹ: Nguyễn Cường, Ngô Quốc Tính, Đặng Hữu Phúc, An Thuyên, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Tạo... Trên lĩnh vực đào tạo nhiều giáo sư - nhạc sỹ đã đóng góp công sức, tài năng, tâm huyết cho tiếng nói của âm nhạc dân tộc lắng đọng trong lớp lớp các thế hệ sinh viên. Và như tất cả chúng ta đều biết, mọi sự tồn tại đều có qui luật vận động riêng và đặc thù của nó. Đối với âm nhạc, một loại hình nghệ thuật trừu tượng nhưng hết sức cụ thể, nó luôn luôn gợi mở trí tưởng tượng phong phú của con người, vì bản chất của nghệ thuật âm nhạc là khi âm thanh vang lên đúng với cảm xúc và tâm thức dân tộc, phù hợp với tần số rung động (nhận thức cảm tình) của từng người, thì "cái hay" của âm nhạc đi thẳng vào trái tim con người mà không cần qua khâu trung gian xúc tác (tính đặc thù của âm nhạc), lúc này, đối tượng thưởng thức như đắm mình trong khoái cảm của nghệ thuật âm nhạc.

Chính vì vậy, thiên chức của những người kế thừa và sáng tạo âm nhạc dân tộc là hết sức nặng nề, vì không làm tốt với tinh thần dân tộc cao cả thì vốn liếng âm nhạc của cha ông sẽ mai một dần theo thời gian.

Trên thực tế cũng còn khá nhiều chuyện đáng buồn, chẳng hạn như dùng nhạc cho phim truyện, phim truyền hình của chúng ta. Trớ trêu thay! Cảnh trong phim rõ ràng là cảnh làng quê Việt Nam, nhân vật trong phim là người Việt một trăm phần trăm, vậy mà âm nhạc vang lên lại không thấy âm nhạc dân tộc Việt Nam đâu cả, cứ tây tây thế nào ấy, nghe không thủng!.

Hoặc một số nhạc sỹ sáng tác, một số nhà xuất bản băng đĩa nhạc chạy theo thị hiếu thời thượng, sản xuất nhiều bài hát nghe đến "chóng mặt", một bài cũng vậy, mười bài cũng thế, cứ na ná một "môđen", không thấy sự diệu kỳ của âm nhạc đâu cả, không có hình tượng và cái thần thái của tác phẩm âm nhạc.Và điều quan trọng là dường như họ đã quên đi rằng, mình đang đứng trên nền văn hoá âm nhạc nào?

5. Về đối tượng quản lý văn hoá.

Đây là một hoạt động mang nặng tính chất hành chính nhà nước, và theo chúng tôi đây là yếu tố cực kỳ quan trọng cho việc giữ gìn, phát huy vốn liếng âm nhạc dân tộc trong đời sống hiện đại. Muốn vậy, những người làm công tác này, ngoài hiểu biết chuyên môn cao còn phải nhanh nhậy trong tổ chức điều hành, có những kiến nghị, giải pháp kịp thời, chính xác với các cấp lãnh đạo trong việc bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc ở nhiều cấp độ khác nhau. Mặt khác, quản lý văn hoá còn là chiếc cầu nối trong việc đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục âm nhạc, một nhu cầu cấp bách trước thềm thế kỷ 21.

Trong những năm gần đây, nhà nước ta rất chú trọng việc chấn hưng nền văn hoá dân tộc, trong đó có nghệ thuật âm nhạc mà biểu hiện rõ nhất là các liên hoan hát ru toàn quốc, hội thi hát dân ca khu vực, hội diễn kịch hát dân tộc, hội thi hát đồng dao, liên hoan ca nhạc "Búp sen hồng"...

Chính vì vậy, nhiệm vụ quản lý văn hoá là phải làm cho dòng chảy âm nhạc dân tộc đi đúng hướng theo tinh thần nghị quyết của Đảng về văn hoá văn nghệ trong thời kỳ đổi mới. Đó không những là chức năng, nhiệm vụ của những người làm công tác quản lý văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, là ý thức của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc Việt Nam trong đời sống hiện đại.

Huế, tháng 11 năm 2003
N.V.Đ
(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)

  • Nhạc và lời: DƯƠNG BÍCH HÀ


  • Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ

  • TÔN THẤT BÌNH

    Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.

  • VĂN CAO
           Hồi ký

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.

  • TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN  

    Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.

  • Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

  • “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

    Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

  • TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ

    Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
    Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
    Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
    Cao cao vượt hai hàng bóng vía


  • (Bản dịch của Trương Đình Ngộ)

  • NGUYỄN THỤY KHA

    Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

  • ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.

  • NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.

  • DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.

  • NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.

  • TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.

  • NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

  • VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.