Âm hưởng thơ Đường trong "Ngục trung nhật ký"

14:52 11/05/2021

LÊ NGUYỄN LƯU

Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...

 

Ảnh: internet

Suốt mấy nghìn năm của lịch sử văn học Trung Quốc, có thể nói thơ ca đời Đường là thành tựu lớn lao nhất vừa về số lượng, vừa về chất lượng, bao gồm khoảng 48900 bài của hơn 2200 tác giả trong suốt gần 300 năm (618-907), thuộc bất cứ hình thức thể loại nào: cổ phong, luật thi, nhạc phủ, ca hành...

Tuy nhiên, đặc trưng nổi bật nhất vẫn là luật thi. Cho nên khi nói thơ Hồ Chí Minh - cụ thể là tập Ngục trung nhật ký - mang âm hưởng thơ Đường, chính vì Bác đã vận dụng luật thi để sáng tác. Trong số 127 bài thơ (theo bản in lần thứ 3, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983), thể tứ tuyệt chiếm đại bộ phận, chỉ có hai bài thất ngôn bát cú và vài bài ngũ cổ. Thể tứ tuyệt này vốn đã xuất hiện từ thời Lục triều (281-618), nhưng đến đời Đường, nó chịu ảnh hưởng luật thi mà trở thành có quy cũ, cho nên người ta xem như rút từ bài bát cú ra. Thơ tứ tuyệt của Bác thường tuân thủ các quy tắc thanh vận biền ngẫu rất nghiêm túc, thậm chí có bài toàn đối, như bài Tức cnh chẳng hạn:

Th tiêu xảo họa Trương Phi tượng.
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm
T quc chung niên vô tín tức
C hương mi nhật vọng hi âm

Thỉnh thoảng chúng ta cũng bắt gặp những bài âm luật lỏng lẻo, chứng tỏ Bác không lấy hình thức mà trói buộc nội dung, không vì lời mà hại ý. Đó cũng là thói quen của các nhà thơ lớn đầu đời thịnh Đường như Lý Bạch, Vương Xương Linh, Vương Duy, Sầm Tham, Thôi Hiệu…

Về mặt nghệ thuật, thơ Bác cũng có nhiều nét giống thơ Đường. Ngôn ngữ thì cô đọng, hàm súc, "ý tại ngôn ngoại", hình ảnh chọn lọc, mang tầm khái quát cao. Những cách nói như "viễn tự chung thanh thôi khách bộ" (Hoàng hôn), "Tự cổ thủy đông lưu" (các báo hoan nghênh Uy Ki đại hội), "Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu" (Nạn hữu xuy địch)... chúng ta bắt gặp thường xuyên khi đọc thơ Đường.

Cũng thế, cũng về mặt nội dung, Ngục trung nhật ký không phải hoàn toàn vắng bóng những nỗi xót thương, đau khổ, buồn phiền, những giọt lệ âm thầm vì cảnh ngộ éo le, niềm ngậm ngùi bâng khuâng vì nhớ bạn... nghĩa là rất "con người", rất nhân bản:

Vô tội nhi tù dĩ nhất tải,
Lão phu hòa lệ t tù thi.
                                    (Thu dạ)

Bi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức c nhân.
                        (Tân xuất ngục học đăng sơn)

Đặc biệt tính điệu trong thơ Bác nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang phong thái của nhà hiền triết thời cổ, dùng trí tuệ để điều hòa cảm xúc, ít nhiều đượm màu thế giới quan phương Đông. Chính vì thế mà một số bài nếu chép lẫn vào tập thơ Đường, chúng ta cũng khó phân biệt được. Thử so sánh bài "Nạn hữu xuy địch":

Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyn thê lương điệu chuyn sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu

Với bài "Khuê oán" của Vương Xương Linh:

Khuê trung thiếu phụ bất tri su
Xuân nhật ngửng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hu

(Phòng khuê nàng chẳng biết chi sầu
Trang điểm ngày xuân đứng thúy lầu
Chợt thấy bên đường màu liễu biếc
Tiếc xui chàng kiếm n phong hu)

Cùng một tâm trạng mong chờ, cùng một nỗi buồn vời vợi, cùng một âm điệu não nùng, tuy cảnh ngộ hai người cô phụ khác nhau: người chồng ngày xưa thì ra đi đeo đuổi mộng công hầu, người chồng ngày nay thì gông cùm trong nhà ngục...

Tuy nhiên, khi nói thơ Bác mang âm hưởng thơ Đường là chúng ta không có ý đồng nhất hai đối tượng. Sự thật, thơ Bác vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường cả về hai mặt nghệ thuật và nội dung, nhiều điểm lại vượt qua thơ Đường nữa. Điều đó là tất yếu, bởi vì sống cách đời Đường hơn một nghìn năm, lại ở trong một cảnh ngộ, một xã hội hoàn toàn khác xưa, Bác có cách nhìn cuộc đời rất mới mẻ, hiện đại trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin... Bác đọc nhiều thơ cổ, nhưng rất chủ động, tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc, nên thơ Bác vẫn độc đáo, đậm nét dấu ấn cá nhân và thời đại.

Trước hết, về đề tài, thơ Đường tuy nhiều màu vẻ, nhưng tựu trung lấy từ sinh hoạt "cấp cao" của tầng lớp nho sĩ, quý tộc, còn những cái thuộc về "đời thường" rất ít được nói tới, hoặc có nói tới thì cũng đã qua màng lọc "nhã hóa", không phản ánh đúng thực tế, như đề tài điền viên. Trái lại, đề tài trong thơ Bác rất phong phú, mở rộng ra đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hàng ngày. Cái gì cũng thành thơ được, cho đến một sợi dây trói, một chiếc răng rụng...

Do đề tài xuất phát từ cuộc sống cụ thể như thế, cho nên ngôn ngữ cũng mang tính dân gian - bạch thoại và hiện đại, khác với tính chất văn ngôn cổ kính, trang trọng và quý phái của thơ Đường. Câu thơ của Bác gần với câu văn xuôi khẩu ngữ, đọc lên là hiểu ngay. Bác sử dụng nhiều hư từ mới lẫn cũ, một loại từ hoàn toàn bị các nhà thơ Đường gạt bỏ không "thương tiếc". Chẳng hạn: "Tân như quế DÃ mễ như châu" (Điền Đông), "Bĩ cực CHI thì tất thái lai" (Tảo), "Khẩu bất năng thuyết ĐÍCH, Chỉ lai nhãn truyền ngôn" (Sơ đáo Thiên Bảo ngục)... Trong văn bạch thoại hiện đại, từ ĐÍCH đã thay hẳn từ CHI cổ, nhưng Bác vẫn dùng song song cả hai; từ DÃ khi thì theo nghĩa cũ (vậy) như câu vừa trích dẫn, khi thì lại theo nghĩa mới (cũng), như "Ngục trung nhân DÃ thưởng trung thu" (Trung thu).

Điểm khác biệt quan trọng hơn nữa giữa thơ Bác và thơ Đường là ở nội dung. Con người ngày xưa bị chiết tỏa bởi những tư tưởng duy tâm siêu hình như định mệnh, nhân quả... và nền chính trị phong kiến tập quyền, cho nên tình điệu bàng bạc trong thơ Đường là sầu bi, ai oán, phản ánh nỗi xót xa của con người về cái nhỏ bé, hữu hạn của mình trước cái vô thủy vô chung của vũ trụ:

Thùy kham đăng vọng vân yên lí
Hướng vân mang mang phát lữ sầu.
                        VƯƠNG XƯƠNG LINH, Vạn Tuế lâu

(Ai lên trông ngóng vùng mây khói
Chiều gợi su xa bát ngát tình)

Từ nỗi sầu vạn cổ ấy, những nhà thơ Đường phủ lên cảnh vật một lớp sương khói não nề, khiến cho chúng chứa đầy vẻ hắt hiu tàn tạ của cuộc đời. Một vầng trăng xế, một đóa hoa rơi, ánh mặt trời sắp lặn, buổi chiều xuân muộn... Đặc biệt cái gì cũng cô đơn, từ cánh buồm (cô phàm), ngọn núi (cô phong), đám mây (cô vân) cho đến con vượn (cô viên), chiếc thuyền (cô chu)..., cô đơn đến lạnh lùng, rợn ngợp. Thơ Bác thì ngược lại, trong sáng, vui tươi, khỏe khoắn, luôn luôn tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời và hy vọng:

Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
                                    (Dã cảnh)

Sinh khí đến thì sung vũ trụ
Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.
                                    (Tảo tỉnh)

Như đã nói trên, thơ Bác không phải không mang cái buồn bực, đau khổ, nhưng đó là cái buồn bực, đau khổ cách mạng, vì lòng yêu nước thương dân, nôn nóng hoạt động mà đành bị bó tay trong lao tù, chứ không phải là cái buồn bực, đau khổ man mác bế tắc nhấn chìm con người của thơ Đường. Cũng do đó, Bác nhìn thiên nhiên theo quy luật vận động của nó, và trên thế giới quan Mác - Lê-nin kết hợp với tư tưởng lành mạnh của nhân dân lao động, Bác luôn luôn truyền vào cảnh vật niềm lạc quan, niềm tin cách mạng của mình. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác dù ở cảnh ngộ nào, bao giờ cũng lóe lên vẻ rực rỡ tươi sáng và mang tầm cao rộng hùng vĩ, thể hiện ý chí chiến đấu của con người:

Phiến thì vũ trụ giải lâm phc
Vạn lí sơn hà sái cm chiên
                                    (Tình thiên)

Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ c miện gian.
                                    (Tẩu lộ)

Đem cách nhìn thiên nhiên ấy vào cách nhìn các sự việc trong xã hội, Bác thường sử dụng văn phong trào phúng, một loại văn phong không hề thấy trong thơ Đường, suốt ba trăm năm phát triển, thơ Đường không phải thiếu vắng cái dòng hiện thực phê phán, nhưng ngọn bút châm biếm, đả kích của những tác giả lớn như Đỗ Phủ, Nguyên Kết, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị... nặng về tính chất trữ tình hoặc nghiêm túc, khó tìm thấy cái dí dỏm, hóm hỉnh đầy tinh thần Việt Nam như Ngục trung nhật kí. Thật vậy, Bác chẳng những trào phúng đối với các sự việc trái khoáy, ngược đời:

Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lí đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lí lai
                                    (Đổ)

mà ngay đối với cảnh ngộ gian khổ của chính bản thân, người khác thì than thở kêu van, nhưng Bác lại đùa:

Ngật công gai phạn trú công phòng
Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng
                                    (Giải trào)

Mãn thân hng lục như xuyên cẩm
Thành nhật lao tao tự c cm
                                    (Lại sang)

Tóm lại, thơ Bác tuy mang âm hưởng thơ Đường, nhưng vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường, chủ yếu là do được sáng tác trên hai phạm trù tư tưởng trái ngược nhau, hai phương pháp nhận thức sự vật khác hẳn nhau. Với Bác, con người phải làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bởi thế, thơ Bác mới tràn đầy tinh thần lạc quan, ý chí sắt thép và niềm tin vào cuộc sống.(*)

L.N.L
(TCSH49/05&6-1992)

--------------------

(*) Để bài viết gọn nhẹ, chúng tôi chỉ trích nguyên văn thơ Bác. Bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy bản dịch trong tập Ngục trung nhật kí xuất bản năm 1983. (LNL)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.