LÊ NGUYỄN LƯU
Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...
Ảnh: internet
![]() |
Suốt mấy nghìn năm của lịch sử văn học Trung Quốc, có thể nói thơ ca đời Đường là thành tựu lớn lao nhất vừa về số lượng, vừa về chất lượng, bao gồm khoảng 48900 bài của hơn 2200 tác giả trong suốt gần 300 năm (618-907), thuộc bất cứ hình thức thể loại nào: cổ phong, luật thi, nhạc phủ, ca hành...
Tuy nhiên, đặc trưng nổi bật nhất vẫn là luật thi. Cho nên khi nói thơ Hồ Chí Minh - cụ thể là tập Ngục trung nhật ký - mang âm hưởng thơ Đường, chính vì Bác đã vận dụng luật thi để sáng tác. Trong số 127 bài thơ (theo bản in lần thứ 3, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983), thể tứ tuyệt chiếm đại bộ phận, chỉ có hai bài thất ngôn bát cú và vài bài ngũ cổ. Thể tứ tuyệt này vốn đã xuất hiện từ thời Lục triều (281-618), nhưng đến đời Đường, nó chịu ảnh hưởng luật thi mà trở thành có quy cũ, cho nên người ta xem như rút từ bài bát cú ra. Thơ tứ tuyệt của Bác thường tuân thủ các quy tắc thanh vận biền ngẫu rất nghiêm túc, thậm chí có bài toàn đối, như bài Tức cảnh chẳng hạn:
Thụ tiêu xảo họa Trương Phi tượng.
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm
Tổ quốc chung niên vô tín tức
Cố hương mỗi nhật vọng hồi âm
Thỉnh thoảng chúng ta cũng bắt gặp những bài âm luật lỏng lẻo, chứng tỏ Bác không lấy hình thức mà trói buộc nội dung, không vì lời mà hại ý. Đó cũng là thói quen của các nhà thơ lớn đầu đời thịnh Đường như Lý Bạch, Vương Xương Linh, Vương Duy, Sầm Tham, Thôi Hiệu…
Về mặt nghệ thuật, thơ Bác cũng có nhiều nét giống thơ Đường. Ngôn ngữ thì cô đọng, hàm súc, "ý tại ngôn ngoại", hình ảnh chọn lọc, mang tầm khái quát cao. Những cách nói như "viễn tự chung thanh thôi khách bộ" (Hoàng hôn), "Tự cổ thủy đông lưu" (các báo hoan nghênh Uy Ki đại hội), "Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu" (Nạn hữu xuy địch)... chúng ta bắt gặp thường xuyên khi đọc thơ Đường.
Cũng thế, cũng về mặt nội dung, Ngục trung nhật ký không phải hoàn toàn vắng bóng những nỗi xót thương, đau khổ, buồn phiền, những giọt lệ âm thầm vì cảnh ngộ éo le, niềm ngậm ngùi bâng khuâng vì nhớ bạn... nghĩa là rất "con người", rất nhân bản:
Vô tội nhi tù dĩ nhất tải,
Lão phu hòa lệ tả tù thi.
(Thu dạ)
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
(Tân xuất ngục học đăng sơn)
Đặc biệt tính điệu trong thơ Bác nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang phong thái của nhà hiền triết thời cổ, dùng trí tuệ để điều hòa cảm xúc, ít nhiều đượm màu thế giới quan phương Đông. Chính vì thế mà một số bài nếu chép lẫn vào tập thơ Đường, chúng ta cũng khó phân biệt được. Thử so sánh bài "Nạn hữu xuy địch":
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu
Với bài "Khuê oán" của Vương Xương Linh:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngửng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Phòng khuê nàng chẳng biết chi sầu
Trang điểm ngày xuân đứng thúy lầu
Chợt thấy bên đường màu liễu biếc
Tiếc xui chàng kiếm ấn phong hầu)
Cùng một tâm trạng mong chờ, cùng một nỗi buồn vời vợi, cùng một âm điệu não nùng, tuy cảnh ngộ hai người cô phụ khác nhau: người chồng ngày xưa thì ra đi đeo đuổi mộng công hầu, người chồng ngày nay thì gông cùm trong nhà ngục...
Tuy nhiên, khi nói thơ Bác mang âm hưởng thơ Đường là chúng ta không có ý đồng nhất hai đối tượng. Sự thật, thơ Bác vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường cả về hai mặt nghệ thuật và nội dung, nhiều điểm lại vượt qua thơ Đường nữa. Điều đó là tất yếu, bởi vì sống cách đời Đường hơn một nghìn năm, lại ở trong một cảnh ngộ, một xã hội hoàn toàn khác xưa, Bác có cách nhìn cuộc đời rất mới mẻ, hiện đại trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin... Bác đọc nhiều thơ cổ, nhưng rất chủ động, tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc, nên thơ Bác vẫn độc đáo, đậm nét dấu ấn cá nhân và thời đại.
Trước hết, về đề tài, thơ Đường tuy nhiều màu vẻ, nhưng tựu trung lấy từ sinh hoạt "cấp cao" của tầng lớp nho sĩ, quý tộc, còn những cái thuộc về "đời thường" rất ít được nói tới, hoặc có nói tới thì cũng đã qua màng lọc "nhã hóa", không phản ánh đúng thực tế, như đề tài điền viên. Trái lại, đề tài trong thơ Bác rất phong phú, mở rộng ra đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hàng ngày. Cái gì cũng thành thơ được, cho đến một sợi dây trói, một chiếc răng rụng...
Do đề tài xuất phát từ cuộc sống cụ thể như thế, cho nên ngôn ngữ cũng mang tính dân gian - bạch thoại và hiện đại, khác với tính chất văn ngôn cổ kính, trang trọng và quý phái của thơ Đường. Câu thơ của Bác gần với câu văn xuôi khẩu ngữ, đọc lên là hiểu ngay. Bác sử dụng nhiều hư từ mới lẫn cũ, một loại từ hoàn toàn bị các nhà thơ Đường gạt bỏ không "thương tiếc". Chẳng hạn: "Tân như quế DÃ mễ như châu" (Điền Đông), "Bĩ cực CHI thì tất thái lai" (Tảo), "Khẩu bất năng thuyết ĐÍCH, Chỉ lai nhãn truyền ngôn" (Sơ đáo Thiên Bảo ngục)... Trong văn bạch thoại hiện đại, từ ĐÍCH đã thay hẳn từ CHI cổ, nhưng Bác vẫn dùng song song cả hai; từ DÃ khi thì theo nghĩa cũ (vậy) như câu vừa trích dẫn, khi thì lại theo nghĩa mới (cũng), như "Ngục trung nhân DÃ thưởng trung thu" (Trung thu).
Điểm khác biệt quan trọng hơn nữa giữa thơ Bác và thơ Đường là ở nội dung. Con người ngày xưa bị chiết tỏa bởi những tư tưởng duy tâm siêu hình như định mệnh, nhân quả... và nền chính trị phong kiến tập quyền, cho nên tình điệu bàng bạc trong thơ Đường là sầu bi, ai oán, phản ánh nỗi xót xa của con người về cái nhỏ bé, hữu hạn của mình trước cái vô thủy vô chung của vũ trụ:
Thùy kham đăng vọng vân yên lí
Hướng vân mang mang phát lữ sầu.
VƯƠNG XƯƠNG LINH, Vạn Tuế lâu
(Ai lên trông ngóng vùng mây khói
Chiều gợi sầu xa bát ngát tình)
Từ nỗi sầu vạn cổ ấy, những nhà thơ Đường phủ lên cảnh vật một lớp sương khói não nề, khiến cho chúng chứa đầy vẻ hắt hiu tàn tạ của cuộc đời. Một vầng trăng xế, một đóa hoa rơi, ánh mặt trời sắp lặn, buổi chiều xuân muộn... Đặc biệt cái gì cũng cô đơn, từ cánh buồm (cô phàm), ngọn núi (cô phong), đám mây (cô vân) cho đến con vượn (cô viên), chiếc thuyền (cô chu)..., cô đơn đến lạnh lùng, rợn ngợp. Thơ Bác thì ngược lại, trong sáng, vui tươi, khỏe khoắn, luôn luôn tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời và hy vọng:
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
(Dã cảnh)
Sinh khí đến thì sung vũ trụ
Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.
(Tảo tỉnh)
Như đã nói trên, thơ Bác không phải không mang cái buồn bực, đau khổ, nhưng đó là cái buồn bực, đau khổ cách mạng, vì lòng yêu nước thương dân, nôn nóng hoạt động mà đành bị bó tay trong lao tù, chứ không phải là cái buồn bực, đau khổ man mác bế tắc nhấn chìm con người của thơ Đường. Cũng do đó, Bác nhìn thiên nhiên theo quy luật vận động của nó, và trên thế giới quan Mác - Lê-nin kết hợp với tư tưởng lành mạnh của nhân dân lao động, Bác luôn luôn truyền vào cảnh vật niềm lạc quan, niềm tin cách mạng của mình. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác dù ở cảnh ngộ nào, bao giờ cũng lóe lên vẻ rực rỡ tươi sáng và mang tầm cao rộng hùng vĩ, thể hiện ý chí chiến đấu của con người:
Phiến thì vũ trụ giải lâm phục
Vạn lí sơn hà sái cẩm chiên
(Tình thiên)
Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
(Tẩu lộ)
Đem cách nhìn thiên nhiên ấy vào cách nhìn các sự việc trong xã hội, Bác thường sử dụng văn phong trào phúng, một loại văn phong không hề thấy trong thơ Đường, suốt ba trăm năm phát triển, thơ Đường không phải thiếu vắng cái dòng hiện thực phê phán, nhưng ngọn bút châm biếm, đả kích của những tác giả lớn như Đỗ Phủ, Nguyên Kết, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị... nặng về tính chất trữ tình hoặc nghiêm túc, khó tìm thấy cái dí dỏm, hóm hỉnh đầy tinh thần Việt Nam như Ngục trung nhật kí. Thật vậy, Bác chẳng những trào phúng đối với các sự việc trái khoáy, ngược đời:
Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lí đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phạm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lí lai
(Đổ)
mà ngay đối với cảnh ngộ gian khổ của chính bản thân, người khác thì than thở kêu van, nhưng Bác lại đùa:
Ngật công gai phạn trú công phòng
Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng
(Giải trào)
Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm
Thành nhật lao tao tự cổ cầm
(Lại sang)
Tóm lại, thơ Bác tuy mang âm hưởng thơ Đường, nhưng vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường, chủ yếu là do được sáng tác trên hai phạm trù tư tưởng trái ngược nhau, hai phương pháp nhận thức sự vật khác hẳn nhau. Với Bác, con người phải làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bởi thế, thơ Bác mới tràn đầy tinh thần lạc quan, ý chí sắt thép và niềm tin vào cuộc sống.(*)
L.N.L
(TCSH49/05&6-1992)
--------------------
(*) Để bài viết gọn nhẹ, chúng tôi chỉ trích nguyên văn thơ Bác. Bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy bản dịch trong tập Ngục trung nhật kí xuất bản năm 1983. (LNL)
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!