LÊ NGUYỄN LƯU
Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...
Ảnh: internet
![]() |
Suốt mấy nghìn năm của lịch sử văn học Trung Quốc, có thể nói thơ ca đời Đường là thành tựu lớn lao nhất vừa về số lượng, vừa về chất lượng, bao gồm khoảng 48900 bài của hơn 2200 tác giả trong suốt gần 300 năm (618-907), thuộc bất cứ hình thức thể loại nào: cổ phong, luật thi, nhạc phủ, ca hành...
Tuy nhiên, đặc trưng nổi bật nhất vẫn là luật thi. Cho nên khi nói thơ Hồ Chí Minh - cụ thể là tập Ngục trung nhật ký - mang âm hưởng thơ Đường, chính vì Bác đã vận dụng luật thi để sáng tác. Trong số 127 bài thơ (theo bản in lần thứ 3, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983), thể tứ tuyệt chiếm đại bộ phận, chỉ có hai bài thất ngôn bát cú và vài bài ngũ cổ. Thể tứ tuyệt này vốn đã xuất hiện từ thời Lục triều (281-618), nhưng đến đời Đường, nó chịu ảnh hưởng luật thi mà trở thành có quy cũ, cho nên người ta xem như rút từ bài bát cú ra. Thơ tứ tuyệt của Bác thường tuân thủ các quy tắc thanh vận biền ngẫu rất nghiêm túc, thậm chí có bài toàn đối, như bài Tức cảnh chẳng hạn:
Thụ tiêu xảo họa Trương Phi tượng.
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm
Tổ quốc chung niên vô tín tức
Cố hương mỗi nhật vọng hồi âm
Thỉnh thoảng chúng ta cũng bắt gặp những bài âm luật lỏng lẻo, chứng tỏ Bác không lấy hình thức mà trói buộc nội dung, không vì lời mà hại ý. Đó cũng là thói quen của các nhà thơ lớn đầu đời thịnh Đường như Lý Bạch, Vương Xương Linh, Vương Duy, Sầm Tham, Thôi Hiệu…
Về mặt nghệ thuật, thơ Bác cũng có nhiều nét giống thơ Đường. Ngôn ngữ thì cô đọng, hàm súc, "ý tại ngôn ngoại", hình ảnh chọn lọc, mang tầm khái quát cao. Những cách nói như "viễn tự chung thanh thôi khách bộ" (Hoàng hôn), "Tự cổ thủy đông lưu" (các báo hoan nghênh Uy Ki đại hội), "Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu" (Nạn hữu xuy địch)... chúng ta bắt gặp thường xuyên khi đọc thơ Đường.
Cũng thế, cũng về mặt nội dung, Ngục trung nhật ký không phải hoàn toàn vắng bóng những nỗi xót thương, đau khổ, buồn phiền, những giọt lệ âm thầm vì cảnh ngộ éo le, niềm ngậm ngùi bâng khuâng vì nhớ bạn... nghĩa là rất "con người", rất nhân bản:
Vô tội nhi tù dĩ nhất tải,
Lão phu hòa lệ tả tù thi.
(Thu dạ)
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
(Tân xuất ngục học đăng sơn)
Đặc biệt tính điệu trong thơ Bác nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang phong thái của nhà hiền triết thời cổ, dùng trí tuệ để điều hòa cảm xúc, ít nhiều đượm màu thế giới quan phương Đông. Chính vì thế mà một số bài nếu chép lẫn vào tập thơ Đường, chúng ta cũng khó phân biệt được. Thử so sánh bài "Nạn hữu xuy địch":
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu
Với bài "Khuê oán" của Vương Xương Linh:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngửng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Phòng khuê nàng chẳng biết chi sầu
Trang điểm ngày xuân đứng thúy lầu
Chợt thấy bên đường màu liễu biếc
Tiếc xui chàng kiếm ấn phong hầu)
Cùng một tâm trạng mong chờ, cùng một nỗi buồn vời vợi, cùng một âm điệu não nùng, tuy cảnh ngộ hai người cô phụ khác nhau: người chồng ngày xưa thì ra đi đeo đuổi mộng công hầu, người chồng ngày nay thì gông cùm trong nhà ngục...
Tuy nhiên, khi nói thơ Bác mang âm hưởng thơ Đường là chúng ta không có ý đồng nhất hai đối tượng. Sự thật, thơ Bác vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường cả về hai mặt nghệ thuật và nội dung, nhiều điểm lại vượt qua thơ Đường nữa. Điều đó là tất yếu, bởi vì sống cách đời Đường hơn một nghìn năm, lại ở trong một cảnh ngộ, một xã hội hoàn toàn khác xưa, Bác có cách nhìn cuộc đời rất mới mẻ, hiện đại trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin... Bác đọc nhiều thơ cổ, nhưng rất chủ động, tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc, nên thơ Bác vẫn độc đáo, đậm nét dấu ấn cá nhân và thời đại.
Trước hết, về đề tài, thơ Đường tuy nhiều màu vẻ, nhưng tựu trung lấy từ sinh hoạt "cấp cao" của tầng lớp nho sĩ, quý tộc, còn những cái thuộc về "đời thường" rất ít được nói tới, hoặc có nói tới thì cũng đã qua màng lọc "nhã hóa", không phản ánh đúng thực tế, như đề tài điền viên. Trái lại, đề tài trong thơ Bác rất phong phú, mở rộng ra đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hàng ngày. Cái gì cũng thành thơ được, cho đến một sợi dây trói, một chiếc răng rụng...
Do đề tài xuất phát từ cuộc sống cụ thể như thế, cho nên ngôn ngữ cũng mang tính dân gian - bạch thoại và hiện đại, khác với tính chất văn ngôn cổ kính, trang trọng và quý phái của thơ Đường. Câu thơ của Bác gần với câu văn xuôi khẩu ngữ, đọc lên là hiểu ngay. Bác sử dụng nhiều hư từ mới lẫn cũ, một loại từ hoàn toàn bị các nhà thơ Đường gạt bỏ không "thương tiếc". Chẳng hạn: "Tân như quế DÃ mễ như châu" (Điền Đông), "Bĩ cực CHI thì tất thái lai" (Tảo), "Khẩu bất năng thuyết ĐÍCH, Chỉ lai nhãn truyền ngôn" (Sơ đáo Thiên Bảo ngục)... Trong văn bạch thoại hiện đại, từ ĐÍCH đã thay hẳn từ CHI cổ, nhưng Bác vẫn dùng song song cả hai; từ DÃ khi thì theo nghĩa cũ (vậy) như câu vừa trích dẫn, khi thì lại theo nghĩa mới (cũng), như "Ngục trung nhân DÃ thưởng trung thu" (Trung thu).
Điểm khác biệt quan trọng hơn nữa giữa thơ Bác và thơ Đường là ở nội dung. Con người ngày xưa bị chiết tỏa bởi những tư tưởng duy tâm siêu hình như định mệnh, nhân quả... và nền chính trị phong kiến tập quyền, cho nên tình điệu bàng bạc trong thơ Đường là sầu bi, ai oán, phản ánh nỗi xót xa của con người về cái nhỏ bé, hữu hạn của mình trước cái vô thủy vô chung của vũ trụ:
Thùy kham đăng vọng vân yên lí
Hướng vân mang mang phát lữ sầu.
VƯƠNG XƯƠNG LINH, Vạn Tuế lâu
(Ai lên trông ngóng vùng mây khói
Chiều gợi sầu xa bát ngát tình)
Từ nỗi sầu vạn cổ ấy, những nhà thơ Đường phủ lên cảnh vật một lớp sương khói não nề, khiến cho chúng chứa đầy vẻ hắt hiu tàn tạ của cuộc đời. Một vầng trăng xế, một đóa hoa rơi, ánh mặt trời sắp lặn, buổi chiều xuân muộn... Đặc biệt cái gì cũng cô đơn, từ cánh buồm (cô phàm), ngọn núi (cô phong), đám mây (cô vân) cho đến con vượn (cô viên), chiếc thuyền (cô chu)..., cô đơn đến lạnh lùng, rợn ngợp. Thơ Bác thì ngược lại, trong sáng, vui tươi, khỏe khoắn, luôn luôn tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời và hy vọng:
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
(Dã cảnh)
Sinh khí đến thì sung vũ trụ
Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.
(Tảo tỉnh)
Như đã nói trên, thơ Bác không phải không mang cái buồn bực, đau khổ, nhưng đó là cái buồn bực, đau khổ cách mạng, vì lòng yêu nước thương dân, nôn nóng hoạt động mà đành bị bó tay trong lao tù, chứ không phải là cái buồn bực, đau khổ man mác bế tắc nhấn chìm con người của thơ Đường. Cũng do đó, Bác nhìn thiên nhiên theo quy luật vận động của nó, và trên thế giới quan Mác - Lê-nin kết hợp với tư tưởng lành mạnh của nhân dân lao động, Bác luôn luôn truyền vào cảnh vật niềm lạc quan, niềm tin cách mạng của mình. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác dù ở cảnh ngộ nào, bao giờ cũng lóe lên vẻ rực rỡ tươi sáng và mang tầm cao rộng hùng vĩ, thể hiện ý chí chiến đấu của con người:
Phiến thì vũ trụ giải lâm phục
Vạn lí sơn hà sái cẩm chiên
(Tình thiên)
Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
(Tẩu lộ)
Đem cách nhìn thiên nhiên ấy vào cách nhìn các sự việc trong xã hội, Bác thường sử dụng văn phong trào phúng, một loại văn phong không hề thấy trong thơ Đường, suốt ba trăm năm phát triển, thơ Đường không phải thiếu vắng cái dòng hiện thực phê phán, nhưng ngọn bút châm biếm, đả kích của những tác giả lớn như Đỗ Phủ, Nguyên Kết, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị... nặng về tính chất trữ tình hoặc nghiêm túc, khó tìm thấy cái dí dỏm, hóm hỉnh đầy tinh thần Việt Nam như Ngục trung nhật kí. Thật vậy, Bác chẳng những trào phúng đối với các sự việc trái khoáy, ngược đời:
Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lí đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phạm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lí lai
(Đổ)
mà ngay đối với cảnh ngộ gian khổ của chính bản thân, người khác thì than thở kêu van, nhưng Bác lại đùa:
Ngật công gai phạn trú công phòng
Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng
(Giải trào)
Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm
Thành nhật lao tao tự cổ cầm
(Lại sang)
Tóm lại, thơ Bác tuy mang âm hưởng thơ Đường, nhưng vẫn phân biệt rất rõ với thơ Đường, chủ yếu là do được sáng tác trên hai phạm trù tư tưởng trái ngược nhau, hai phương pháp nhận thức sự vật khác hẳn nhau. Với Bác, con người phải làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bởi thế, thơ Bác mới tràn đầy tinh thần lạc quan, ý chí sắt thép và niềm tin vào cuộc sống.(*)
L.N.L
(TCSH49/05&6-1992)
--------------------
(*) Để bài viết gọn nhẹ, chúng tôi chỉ trích nguyên văn thơ Bác. Bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy bản dịch trong tập Ngục trung nhật kí xuất bản năm 1983. (LNL)
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.
FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.