NGUYỄN XUÂN HÒA
Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam ta xuất hiện nhà tư tưởng, nhà cách mạng, nhà văn Phan Bội Châu, thì ở Trung Quốc cũng xuất hiện nhà tư tưởng, nhà cách mạng, nhà văn Trần Thiên Hoa.
Ảnh: wikipedia
Trần Thiên Hoa (1875-1905) quê quán ở Hồ Nam, Trung Quốc kém Phan Bội Châu 7 tuổi, nhưng hoạt động đồng thời với Phan Bội Châu.
Về trước tác văn học dung lượng tác phẩm của Phan Bội Châu phong phú hơn, đồ sộ hơn nhưng xét về mặt tư tưởng thì hai nhà văn có nét gần giống nhau. Trần Thiên Hoa đã góp phần quan trọng vào công cuộc cách mạng Tân Hợi Trung Quốc.
Trước tác ông có "Trần Thiên Hoa tập" trong đó có một số bài tiêu biểu như "Tiếng chuông cảnh tỉnh", "Tiếng rống con sư tử", "Mãnh hồi đấu", "Lời tuyệt mệnh"... Phan Bội Châu (1867 - 1940) là nhà tư tưởng nhà văn tiêu biểu thời cận đại. Tác phẩm của ông đã được sưu tầm, biên soạn xuất bản nhiều lần, năm 1990 nhà xuất bản Thuận Hóa cho in "Phan Bội Châu toàn tập".
Tác phẩm của Trần Thiên Hoa, Phan Bội Châu có những nét tương đồng. Vậy nét tương đồng đó là gì? Tại sao có sự tương đồng đó?
I. Hoàn cảnh thời đại của Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu
Nhà Thanh thống trị Trung Quốc gần hai trăm năm lịch sử, nhân dân Trung Quốc bị cảnh ép áp bức của dị tộc vô cùng đau khổ. Sau khi chiếm xong Ấn Độ, đế quốc Anh muốn xâm chiếm Trung Quốc. Năm 1840 Anh mượn cớ không cho chúng chở thuốc phiện đến Trung Quốc để gây cuộc chiến tranh nha phiến.
Sau cuộc chiến tranh nha phiến thất bại, các nước phương Tây lần lượt đến Trung Quốc, tranh giành, xâu xé chia cắt đất nước này.
Hoàn cảnh, xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ 19 cũng có những nét tương tự. Năm 1858 bọn thực dân Pháp tấn công vào cửa biển Đà Nẵng và kéo dài gần nửa thế kỷ. Giai cấp phong kiến thống trị yếu ớt chống đỡ rồi thỏa hiệp đầu hàng quân xâm lược.
Tiếp tục truyền thống yêu nước của nhân dân hai nước Trung - Việt, tầng lớp trí thức của hai nước đã tìm đường cứu nguy cho dân tộc. Một câu hỏi đặt ra đối với họ là tư tưởng duy tân cải cách, đổi mới, tự cường dân tộc hay tự hủy diệt.
Ở Trung Quốc Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đã dâng thư lên vua Quang Tự đòi cải cách xã hội, cải cách chính trị nhưng bị phái ngoan cố thủ cựu đứng đầu là Từ Hi Thái Hậu phản đối đàn áp. Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu phải trốn sang Nhật Bản. Trong khi đó phái cách mạng Tôn Trung Sơn khởi xướng từ năm 1905 dần dần lan rộng ra cả nước và tiến tới giành thắng lợi cho cuộc cách mạng Tân Hợi 1941. Các nhà văn yêu nước như Trần Thiên Hoa, Thu Cẩn, Châu Dung, Chương Bình Lân đã góp phần tích cực cho cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa lịch sử này. Tiến đến, phong trào cách mạng Ngũ tứ vận động 1919 ra đời mới có sự chuyển biến thật sự: cuộc cách mạng dân chủ mới chống đế quốc, chống phong kiến triệt để hơn.
Ở Việt Nam, các sĩ phu, trí thức yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đã từng đi du lịch, và kinh lý, các nước Châu Âu, có kiến nghị đòi cải cách xã hội nhưng chưa thành một phong trào rộng rãi. Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu tuy biện pháp cứu nước có khác nhau, nhưng cả hai là nhà yêu nước, cách mạng xuất sắc đầu thế kỷ 20. Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu đã sử dụng vũ khí văn học để vạch mặt tội ác của bọn thực dân Pháp, phê phán sự chuyên chế bạo tàn của vua quan phong kiến thống trị.
II. Mấy nét chung giữa Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu.
Do biết hướng văn chương vào mục đích chính trị nên thơ văn Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu không có lối thơ văn thù tạc, không có lối thơ văn thưởng hoa vịnh nguyệt. Thể văn của hai ông mang tính thời sự, tính chiến đấu rõ rệt. Hai ông thường nói đến cảnh nước mất nhà tan, kêu gọi mọi người đứng dậy giành quyền độc lập dân tộc, đề xướng tư tưởng dân quyền, tư tưởng dân chủ bình đẳng. Nếu Trần Thiên Hoa viết “Tiếng chuông cảnh tỉnh” thì Phan Bội Châu viết “Hải ngoại huyết thư”, nếu Trần Thiên Hoa viết về “Trung Hoa cách mạng sử luận” thì Phan Bội Châu viết “Việt Nam quốc sử khảo”. Nếu Trần Thiên Hoa viết về “Địa lý và nhân chủng Trung Quốc” thì Phan Bội Châu viết “Người nước ta viết sử nước ta”.
Nếu trong tác phẩm của Trần Thiên Hoa thường hay nói đến khái niệm tự do dân chủ, lập hiến, ái quốc, ái chủng thì Phan Bội Châu thường nói "Thế nào là ái quốc" là "ái chủng”, thế nào là "hợp quần", thế nào là "dân chủ" là "bình đẳng".
Những bài văn nghị luận mà hai ông sáng tác nhằm tuyên truyền cho công cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nên thường dùng các thuật ngữ có tính hô hào kêu gọi "Nam quốc dân tu tri" (Phan Bội Châu). "Chủ vị tu tri" (Trần Thiên Hoa). "Lời khuyến dụ" (Phan Bội Châu), "Lời phụng khuyến" (Trần Thiên Hoa), "Điều mong ước" (Phan Bội Châu), "Điều cần học" (Trần Thiên Hoa)... Các đối tượng mà hai ông thường vận động tuyên truyền là "đồng bào", "liệt vị", "chư quân". Hai ông cũng sử dụng thuật ngữ nhân xưng như "bỉ nhân", "tội nhân". Đối với kẻ thù hai ông thường gọi "lũ tây dương", "loài bạch quỷ", "quân gian tặc".
III. Nét tương đồng giữa "Tiếng chuông cảnh tỉnh" (Trần Thiên Hoa), "Hải ngoại huyết thư" (Phan Bội Châu), "Lời tuyệt mệnh” (Trần Thiên Hoa), "Mấy lời vĩnh quyết" (Phan Bội Châu).
1. "Tiếng chuông cảnh tỉnh" và "Hải ngoại huyết thư".
"Tiếng chuông cảnh tỉnh" (1) là tác phẩm nhằm vạch trần âm mưu tội ác của bọn đế quốc phương tây xâm chiếm và chia cắt đất nước Trung Quốc qua đó kêu gọi mọi người đứng dậy chống giặc, bảo vệ Tổ quốc.
"Hải ngoại huyết thư" (2) là bức thư bằng máu của Phan Bội Châu từ Nhật gửi về, nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Pháp, chỉ ra nguyên nhân mất nước, kêu gọi đồng bào đồng tâm đứng dậy cứu nước. Nét tương đồng giữa hai tác phẩm là: tố cáo tội ác của bọn đế quốc phong kiến, kêu gọi sự thức tỉnh của đồng bào và vận động 10 hạng người đồng tâm cứu nước.
a) Tố cáo tội ác của bọn đế quốc phong kiến.
“Tiếng chuông cảnh tỉnh" là bức tranh hiện thực về tội ác của bọn đế quốc phương Tây. Theo Trần Thiên Hoa thì bọn đế quốc phương Tây không chỉ bóc lột về mặt vật chất mà còn cả tinh thần. Quan chức phương Tây khinh thị người Trung Quốc là man di, dốt nát, xem họ chẳng khác nào con chó... Một cái bảng treo trước công viên Thượng Hải có viết: "Chó và người Trung Quốc không được vào nơi này" (Tiếng chuông cảnh tỉnh).
Trần Thiên Hoa cũng tố cáo tội ác của bọn phong kiến thống trị Mãn Thanh, bọn Hán gian bọn quan lại xuất dương các đảng phái ngoan cố thủ cựu không biết lo cải cách xã hội, chỉ biết sống vì lợi ích cá nhân của mình.
Trong "Hải ngoại huyết thư" Phan Bội Châu đã liệt kê hàng loạt tội ác của giặc Pháp, như tội bắt phu đi lính chịu hàng trăm thứ thuế, ốm đau, bệnh tật. Ông còn chỉ ra nguyên nhân mất nước là do sự "ăn chơi sa đọa của vua quan phong kiến".
b) Lời kêu gọi sự thức tỉnh.
Đồng thời với việc tố cáo tội ác của bọn đế quốc phong kiến, Trần Thiên Hoa, Phan Bội Châu đã rung hồi chuông thức tỉnh đối với mọi người. Trần Thiên Hoa viết: "Một phút đáng giá nghìn vàng, thời gian không quay trở lại đồng bào hãy mau mau tỉnh dậy” (Tiếng chuông cảnh tỉnh).
Phan Bội Châu lại viết: "Người Việt Nam ta thật là kỳ. Tình hình nông nổi đất nước bị đe dọa như vậy, không biết mọi người đã biết hay chưa? Hay là còn mê mẩn mơ hồ". (Hải ngoại huyết thư).
c) Bức tranh đoàn kết:
Sau khi vạch trần tội ác của bọn xâm lược, đoạn kết của tiểu phẩm Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu đều kêu gọi 10 hạng người(3) hãy đồng lòng đứng dậy cứu nước. Đối với người giàu có (phú hào), Trần Thiên Hoa khuyên họ là phải đưa tiền của ra giúp nước, theo ông giúp nước là có công đối với nước. Đối với người lính, khuyên họ "Không vì đồng lương mà quên nước quên đồng bào", còn Phan Bội Châu thì khuyên người lính phải biết giúp đồng bào để giết giặc cứu nước.
Đối với người trí thức kẻ sĩ, Trần Thiên Hoa khuyên họ biết nói điều hay phải biết hành động "Người ban bố ra hạt giống, phải có người thực hành, người khác chưa thực hành thì mình thực hành trước đó mới xứng là kẻ sĩ chân chính".
Phan Bội Châu kêu gọi trí thức phải biết "đạo giác tư dân” (đem đạo nghĩa mà thức tỉnh dân chúng).
Đối với người theo đạo Gia tô, Trần Thiên Hoa viết: "Khuyên giáo dân phải biết yêu nước, người theo đạo biết thờ phụng đạo nhưng nước quyết không để cho kẻ khác xâm chiếm". Phan Bội Châu kêu gọi đồng bào công giáo phải biết cứu dân, giúp nước, lương giáo phải biết đoàn kết:
"Bởi vì ta lại với ta
Lẽ nào lương giáo toan mà hại nhau".
Phụ nữ là tầng lớp luôn bị giai cấp thống trị khinh rẻ, Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu đã trả lại vị trí xứng đáng cho họ sánh ngang hàng với nam giới. Trần Thiên Hoa viết: "Người phụ nữ góp công góp sức cùng nam giới vào công việc cứu nước". Phan Bội Châu thì khuyên phụ nữ phải học tập gương Bà Trưng, Bà Triệu...
Khi nói đến mười hạng người cần đoàn kết Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu chỉ phân tích vị trí của họ theo quan điểm dân tộc chứ chưa có quan điểm giai cấp. Hễ ai có thù nhà nợ nước thì hai ông đều vận động họ đứng dậy cứu nước.
Nói đến người nghèo, hai ông cũng chỉ nói chung chung, nói người nghèo theo nghĩa rộng, chứ chưa nói đến họ như là một lực lượng giai cấp. Xã hội cận đại Trung Quốc, Việt Nam thời gian này đã xuất hiện giai cấp công nhân, thợ thuyền nhưng cả hai ông đều chưa nói đến vị trí của họ trong bức tranh đoàn kết đó.
2. "Lời tuyệt mệnh" và "Lời vĩnh quyết" (4)
Sự nghiệp cách mạng chưa thành công thì hai ông đã từ giã cõi đời để lại cho hậu thế "Lời tuyệt mệnh" và "Lời vĩnh quyết". Nói chung hai tác phẩm này chan chứa tình cảm dân tộc và biểu hiện niềm tin vào tương lai sáng sủa của đất nước mình.
"Lời tuyệt mệnh" của Trần Thiên Hoa viết vào tháng 11 năm 1905 trong hoàn cảnh chính phủ nhà Thanh liên hệ với chính phủ Nhật để bắt bớ đàn áp, đuổi lưu học sinh Trung Quốc về nước. Trần Thiên Hoa uất ức nhảy xuống biển tự tử để lại "Lời tuyệt mệnh". Trong bài "Lời tuyệt mệnh" Trần Thiên Hoa đã biểu hiện thái độ của mình về một số vấn đề thời sự của Trung Quốc như quan điểm về lẽ tồn vong của dân tộc, quan điểm về cách mạng, về tự do, về tôn giáo. Chẳng hạn như bàn về sự tồn vong của dân tộc Trần Thiên Hoa viết: "Nếu thanh niên Trung Quốc tự buông lỏng hèn kém thì chẳng những mất nước mà còn mất cả nòi giống nữa". Bàn về tự do tác giả cho rằng: "Tự do nhưng phải biết phục tùng nguyên tắc". Bàn về tôn giáo Trần Thiên Hoa cho rằng: "Được quyền tự do lựa chọn tôn giáo, nhưng không được vi phạm vào phong tục tự do của nước đó".
Cuối "Lời tuyệt mệnh" Trần Thiên Hoa mong rằng các "chư quân hãy chọn lấy điều hay trong trước tác của mình thì "bỉ nhân" này sung sướng biết chừng nào". Tác giả viết tiếp: "Sách Luận Ngữ" của Khổng Tử có nói: "Người quân tử không vì mình có khuyết điểm mà nói ra những điều đồi phế".
Phan Bội Châu viết "Lời vĩnh quyết" vào năm 1940 trước khi mất. "Lời vĩnh quyết" thấm đậm tình cảm đối với non sông đất nước. Phan Bội Châu phác họa lại đôi nét về cuộc đời hoạt động của mình mà nói một cách khiêm tốn rằng: "Phan Bội Châu từ xưa tới nay đối với đồng bào đã không chút gì là có công mà có tội mong đồng bào lượng thứ. Người xưa có nói: "Người đến lúc chết, lời nói hẳn lành". Nay tôi đã đến lúc gần chết, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy vọng cuối cùng với đồng bào. Đồng bào hãy biết thương yêu nhau đồng lòng hợp sức, làm các bổn phận quốc gia đối với Tổ quốc".
* * *
Xét về mặt thế giới quan và tư tưởng của nhà văn Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu đến tiếp thu quan điểm nho giáo về "nhân nghĩa" về "ái dân", vừa tiếp thu ảnh hưởng của phái cách mạng tư sản phương Tây như Montesquieu, Rousseau.
Chúng ta còn biết rằng vào những năm 1904 - 1905 Trần Thiên Hoa và Phan Bội Châu đến ở Nhật Bản. Hiện nay chưa có tài liệu nói về hai ông có sự tương kiến lẫn nhau. Nhưng có điều cần thấy rằng Phan Bội Châu rất ngưỡng mộ Tôn Trung Sơn. Tôn Trung Sơn bấy giờ ở Trí Hòa Đường - Hoành Tân và Phan Bội Châu đã hai lần gặp gỡ Tôn Trung Sơn. Tôn Trung Sơn là thủ lĩnh của Trần Thiên Hoa và Trần Thiên Hoa là một thành viên của Đồng Minh Hội trong ban phụ trách tờ Dân Báo. Điều đó cho ta thấy sự liên hệ gần gũi về tư tưởng giữa Tôn Trung Sơn - Trần Thiên Hoa - Phan Bội Châu.
Nhiệm vụ chống đế quốc chống phong kiến là cảm hứng chủ đạo của hai nhà văn. Quan niệm về lẽ sống chết giữa hai ông cũng có những nét tương tự, điều đó dẫn đến sự giống nhau giữa các tác phẩm nói trên. Dĩ nhiên, trong sự giống nhau vẫn có những nét khác nhau do hoàn cảnh thực tại mỗi nước có những nét riêng biệt.
Sự giống nhau giữa hai tác phẩm của hai nước đã chứng minh cho sự gần gũi về hệ tư tưởng của hai nhà văn, sự kế thừa và giao lưu văn hóa nhất là các nước láng giềng ở trong cùng khu vực châu Á.
N.X.H
(TCSH58/11&12-1993)
___________
Chú thích:
(1) "Tiếng chuông cảnh tỉnh". Bản dịch in rônéo của Đại học Tổng hợp Hà Nội (Nguyễn Xuân Hòa dịch).
(2) "Hải ngoại huyết thư" Bản dịch của Lê Đại. Nhà xuất bản Hà Nội - 1945 và bản dịch của Chương Thâu trong "Phan Bội Châu toàn tập". Nxb Thuận Hóa. 1991.
(3) Mười hạng người cần đoàn kết được viết trong "Tiếng chuông cảnh tỉnh" (Trần Thiên Hoa) là: quan lại, binh lính, nhà quý tộc, tri thức, người giàu, người nghèo, đảng phái, bạn giang hồ, giáo dân, phụ nữ.
"Mười hạng người" trong "Hải ngoại huyết thư" (Phan Bội Châu) xem "Hải ngoại huyết thư" sách đã dẫn ở trên.
(4) "Lời tuyệt mệnh", tuyển tập thơ viết về các liệt sĩ cách mạng Tân Hợi. Nxb Trung Hoa Thư cục (bản Trung văn).
"Mấy lời vĩnh quyết". Trích trong "Văn thơ Phan Bội Châu". Nxb Hà Nội 1967.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.
HOÀNG TẤT THẮNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.