KHUÊ VIỆT TRƯỜNG
Truyện ngắn dự thi 1993
Minh họa: Vĩnh Phối
Chuyến xe đò khởi hành từ bến xe Văn Thánh đi Long Khánh chật ních người. Tôi cố tình ngồi ở mép ngoài để nhìn cho rõ những địa danh khi xe đi qua để còn kêu bác tài dừng lại. Nhưng cuối cùng tôi cũng bị đẩy vào tận trong góc, chèn giữa một đống bao bì và mồ hôi người. Đôi mắt tôi bị giới hạn bởi gương mặt già nua của người đàn bà Bắc trước mặt, bà ta cứ nhẩn nha nhai trầu. Nơi đây tôi không thể nào tìm ra một khuôn mặt quen thuộc. Vì giữa mấy triệu người của cái thành phố công nghiệp này tôi lại chỉ có một người quen. Mà người quen đó thì tôi đang tìm đến.
Tôi nhắm mắt lại. Ly cà phê uống vội buổi sáng giờ lại tạo cho chiếc bao tử một cảm giác cồn cào khó chịu. Chiều hôm qua, từ Nha Trang vào đây, tôi mới chỉ ăn một ổ bánh mì thịt. Tánh tôi từ xưa đến giờ là vậy, rất ngại vào hàng quán một mình, cho nên mỗi lần đi xa gần như chỉ biết ăn bánh mì. Cho đến giờ phút này, tôi vẫn không thể hình dung ra nổi tòa "lâu đài tình ái" của Lan ở đâu trên bản đồ Việt Nam? Tôi cũng không hiểu động cơ nào lại thúc đẩy mình lên đường như thế này! Nhưng dù muốn dù không, tôi lại cứ lần lượt leo lên những chuyến xe, cái địa chỉ: "Uốn tóc Mai Lan" là một địa chỉ rất mơ hồ. Cuộc sống cứ đẩy đưa con người trôi đi, như sóng biển đẩy đưa những rong rêu - rồi cứ thế mà sống, mà nói, mà cười.
Lan lấy chồng vào một mùa đông - lấy chàng thanh niên đã đeo đuổi Lan suốt mười năm ròng vẫn không nhận được một cái liếc mắt của em. Giữa đêm mưa đổ, chuyến tàu vượt biên ở Rạch Giá không thành. Lan lếch tha lếch thếch trở lại thành phố với một nỗi tuyệt vọng vô bờ. Hỷ đã tìm đến, quỳ xuống chân Lan. Rồi cuộc đời Lan cứ thế mà trôi dạt.
Đôi lần chúng tôi gặp nhau. Những lần gặp nhau không tình cờ ấy đã khiến tôi tự đặt câu hỏi có phải vì tôi mà Lan đã lấy người mình không yêu? Chúng tôi là đôi bạn học lớp chính trị kinh doanh chung nhóm, chung đường về. Thỉnh thoảng lại rủ nhau lang thang dọc sân Cù hoặc vào Ngọc Hiệp xem phim. Chúng tôi sống vô tư, nếu không nói là rất vô tư và chưa bao giờ tôi có ý nghĩ sẽ tán tỉnh Lan.
Rồi tôi trở về Nha Trang sau ngày giải phóng. Ba của Lan là thiếu tá cảnh sát nên phải đi tập trung cải tạo. Cả gia đình Lan rời bỏ Đà Lạt vào Sài Gòn, rồi chúng tôi mất tin nhau. Đúng hơn là tôi không nhớ tới Lan.
Tôi lấy vợ vào cuối mùa hạ, đó là một cô bạn học ngày xưa. Với chúng tôi có biết bao nhiêu là kỷ niệm. Tôi quyết định sẽ đi Đà Lạt hưởng tuần trăng mật.
Tôi nhớ đêm trở lại Đà Lạt sau năm năm xa cách, khắp các dốc đồi đều tỏa hương thơm. Tôi và Hạ bước vào một nhà hàng ở đường Yersin. Ở giữa những sang trọng ấy, hai chúng tôi nâng ly uống cạn, ly Rhum có trái sơ-ri đỏ mọng - thì tôi bắt gặp một ánh mắt quen - đúng ra là ánh mắt Lan. Lan đang ngồi khuất ở góc tối với một thanh niên. Tôi nhíu mày, nhìn - nhưng giữa những âm thanh lướt thướt của một bản nhạc hòa tấu đang lan tỏa và cái hạnh phúc đang cảm nhận đã làm cho tôi không nhớ kịp. Khi tôi và Hạ ra về, trong vùng sáng của những ánh đèn, Lan đã lướt qua. Cái cổ trắng ngần với một nốt ruồi son đã làm tôi giật mình.
Đến cuối cùng trước khi rời Đà Lạt về Nha Trang cùng Hạ, tôi tìm đến nhà Lan. Ngôi nhà với những luống hoa đã được xới lên để trồng rau. Ánh đèn mù mù và Lan đang ngồi trên chiếc ghế trong góc tối với một con chó nhỏ. Lan ngước mắt nhìn lên:
- Thì ra anh vẫn nhớ!
- Anh đến thử thôi. Hôm qua anh không nhận ra được.
- Khi hạnh phúc người ta dễ bị mù.
- Lan ở đây một mình à?
- Và một đôi đũa gãy, một con chó và một vùng bóng tối.
- Cả nhà đâu?
Em mới lên đây lại mấy ngày, xem thử gia tài còn gì không và để đi thăm nuôi ba. Đêm rồi...
Trong bóng tối mờ mờ, Lan bẻ đôi một củ khoai mời tôi ăn một nửa. Tôi chợt nhớ ngày nào em chỉ uống lưng hớp nước, ăn lưng ly chè. Tôi im lặng và không biết nói gì!
- Anh lấy vợ rồi à?
- Ừ!
- Hạnh phúc không?
- …
Tiếng thở dài của Lan:
- Thế là em mất thêm một người bạn.
Rồi em khóc. Em khóc ngon.
- Khuê, anh không biết gì sao?
- …
- Khuê, anh đến đây làm gì?
Em và bóng tối đã níu tôi. Khi tôi chạm lên bờ tóc mềm đầy hương hoa dạ lý, tôi chợt hiểu rằng, Lan đã không quên tôi như tôi đã quên em. Tất cả đều muộn màng.
Đêm ấy trở về, cái linh cảm của người đàn bà thật ghê gớm. Hạ nhặt một sợi tóc vướng trên áo tôi. Em soi sợi tóc dưới ánh đèn, rồi nhẹ nhàng em hỏi:
- Anh Khuê, anh có biết người đàn ông nào đã ngoại tình ngay tuần trăng mật không?
Tôi cứ nghĩ miên man như thế cho đến khi loáng thoáng ở chỗ trống của thành xe, tôi nhìn thấy những dãy cao su thẳng tắp lướt qua. Tôi hốt hoảng hỏi người ngồi bên:
- Đã tới Trảng Bom chưa vậy anh?
- Trảng Bom hả! Ông này ngủ sao mà hỏi? Tới rừng cao su Xuân Lộc rồi thì có.
- Cho tôi xuống, cho tôi xuống đây.
Xe dừng lại, thả tôi giữa đường. Trả tôi nhập vào rừng cao su đang rụng lá. Tôi đã đi vượt quá xa chỗ ở của Lan: "Anh đi xe tới Trảng Bom, ngay ngã ba thì xuống... đợi đón xe lam vào Vĩnh Cửu, tới bến xe lam đi bộ khoảng một cây nữa". Thôi kệ. Cứ vào rừng cao su mà nếm mùi vị của thu vàng. Tôi đi theo đường mòn, đứng lại, với nhặt một chiếc lá vừa rụng xuống.
Tôi chìa chiếc lá vàng nhặt được đó cho Lan tại ngôi nhà che bằng cót, mái lá trên con dốc Vĩnh Cửu như em mô tả, thì đã bốn giờ chiều. Tôi nói:
- Đây là bằng chứng của một chuyến đi lạc.
Lan trả lời.
- Cám ơn anh.
Ngôi nhà trơ trọi và buồn. Tôi ngoái đầu nhìn tấm bảng "Uốn tóc Mai Lan" và tức cười vì sự thậm xưng của Lan. Tấm bảng kẻ bằng sơn xanh nguệch ngoạc. Tiệm uốn tóc chỉ có một chiếc gương, một chiếc ghế và vài đồ nghề trang điểm. Vậy mà tôi cứ hình dung ra một cơ ngơi làm ăn to lớn. Tôi nheo mắt:
- Ông bà sống được không?
Hỷ cười thật thà:
- Chưa được. Nhưng nếu Lan chịu ở lại đây thì tôi tin sẽ được.
Lan mặc bộ đồ bà ba. Hỷ hối Lan bắt một con gà bé xíu bằng nắm tay đang quanh quán để làm thịt. Với lấy chai rượu cam để trên bàn thờ, Hỷ cười:
- Ông lãng mạn quá, tôi chịu. Kệ, có gì nhậu nấy!
Tôi nhoái người nhìn ra nắng. Tôi thấy Lan đang bước cao bước thấp xuống triền dốc với cái xô nhôm trên tay. Giữa lấp lóa nắng, xa xa là những thân cây trụi lá cháy sém và một sự hoang vu. Tôi không nói gì, những dường như Hỷ hiểu:
- Ông thấy cảnh này nản không. Nhưng phải biết nhìn xa trông rộng. Tôi bàn với Lan là chỉ hai năm thôi khu vực này sẽ phát triển khi thủy điện Trị An hoạt động. Mình sẽ giàu... À, mà tại sao ông biết tụi tôi ở chỗ này mà đến?
- Lan viết thư. Vả lại có công chuyện ở Sài Gòn, tôi cũng muốn ngao du một chuyến thử xem sao.
- Ông ở vài ngày chơi cho biết nghe!
- Không, chiều nay tôi về thành phố. Hỷ vỗ đùi một cái đét cười khan:
- Không được đâu. Chuyến xe đưa ông vào đây là chuyến cuối cùng trong ngày đó. Tạm thời ông sẽ ở lại đêm nay.
- Ừ, ở lại.
- Ở lại. Tôi nhìn Lan và Hỷ. Tôi bỗng giật mình về cái ngông cuồng của mình. Một thằng đàn ông có vợ lặn lội bao nhiêu cây số để đến cái chốn xa xôi với mục đích là xem vợ chồng bạn sống ra sao? Có phải chỉ vậy thôi không? Hay là một thôi thúc nào trong tận cùng trái tim người đã nhen lên? Lửa đã đổ, dù ngọn lửa cháy thật muộn màng. Nhưng duy có một điều tôi biết được là Lan rất vui lòng khi tôi có mặt ở nơi chốn của em.
Khi trở về Sài Gòn tôi đã dừng chân ở bưu điện viết cho Lan một lá thư. Đêm ở Vĩnh Cửu, nằm ở phòng ngoài, tôi hút tàn hết một gói thuốc cùng với đám muỗi vo ve. Cách ngăn tôi một chiếc màn mỏng manh cứ chao lượn trong gió đêm, là Lan và Hỷ. Tôi hút thuốc đến rát lưỡi mà không ngủ được. Cái ý nghĩ trần tục của tôi cứ nghĩ về một nụ hôn, một sợi tóc cho đến khi gà gáy sáng. Đêm đã hết. Khi chạm ánh mắt Lan ở cửa bếp, em thổi lửa, lửa cháy bỏng và củi là những lá dừa khô, tôi biết cả đêm em cũng không ngủ. Còn Hỷ?
Trong lờ mờ của ánh rạng đông, tôi tìm lấy tay Lan, bóp chặt trong tay mình. Đôi tay mềm và ấm, đôi tay chưa kịp chai sạn theo vùng đất hoang vu này. Rồi nghe tiếng ho của Hỷ, Lan rụt tay về, em nói: "Muộn rồi". Tiếng nước bắt đầu reo, tiếng reo sao rõ ràng đến thế.
Khi tôi xếp gọn chiếc xách tay nhỏ lại, Hỷ nói:
- Sao ông lật đật thế? Ở lại chơi ít ngày. Lát nữa tôi vào xóm xem thử có gì lai rai không.
Tôi không nghĩ rằng Hỷ đang bung ra một cạm bẫy! Tôi không dám nhìn vào mắt Lan. Tôi sợ. Nhưng sợ gì? Sợ sự phản bội hay sự yếu lòng, hay là tất cả?
Tôi về Nha Trang bình yên trong chuyến xe lửa chiều. Đoàn tàu cứ lao, tôi dật dờ với cơn buồn ngủ. Lan đã từ Vĩnh Cửu theo xe về tận Sài Gòn. Khi em đặt chân đến thành phố thì tôi cũng vừa chia tay với nó. Tôi không biết lúc đó em buồn như thế nào? Nhưng có lẽ nào chúng tôi lại chỉ là hai đường song song không bao giờ gặp gỡ?
K.V.T
(TCSH58/11&12-1993)
Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.
Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.
Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.
1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.