104 kiểu mua bán lương tâm trong "Từ thụ yếu quy"

14:59 16/11/2009
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

Đặng Huy Trứ - Ảnh: vinhanonline.com

Cuốn sách có 206 trang so với độ dày nguyên bản 2000 trang chứng tỏ hai dịch giả Nguyễn Văn Huyền và Phạm Tuấn Khánh đã cố gắng thâu tóm phần quan trọng nhất của nguyên bản trao đến cho chúng ta. Như vậy là dẫn chứng đã bị lược bỏ nhiều hẳn phần đa dạng sinh động có bị hạn chế (nguyên bản có 2017 dẫn chứng). Riêng về nạn hối lộ, nạn mua bán lương tâm, Đặng Huy Trứ đề cập tới 104 kiểu. Xin đơn cử ra đây một số hình thức hối lộ mà ngay cả tiêu đề đã có thể kết hợp thành đám mây đen tang tóc trên bầu trời Việt Nam thời Đặng Huy Trứ làm quan, thời ông sống và chứng kiến:

            - Quan lại xảo quyệt hối lộ cầu được tiến cử.
            - Quan bị cách chức hối lộ được phục hồi chức.
            - Địa phương hối lộ các quan đến thanh tra.
            - Hối lộ các quan đi tra xét án kiện tụng.
            - Đồng sự làm việc bất công, phi pháp hối lộ để cầu được che giấu.
            - Kẻ thâu thuế cửa quan, bến đò hối lộ để lạm thu.
            - Con buôn người nước ngoài hối lộ để cầu thân.
            - Hối lộ để chứng nhận ruộng bị thiên tai.
            - Nhận hối lộ của dân xin miễn cung cấp vật liệu.
            - Thương nhân hối lộ để tiêu thụ được hàng.
            - Kẻ đi kiện hối lộ để cầu được kiện.
            - Người bị tội hối lộ xin giảm, miễn tội.
            - Người có tội hối lộ để giấu diếm tài sản.
            - Kẻ phạm điều cấm, hối lộ để cầu được miễn truy tội.
            - Nhà giàu vượt ra nước ngoài danh phận hối lộ cần được che giấu.
            - Quan lại tham nhũng hối lộ để lấy lòng quan trên.
            - Chiều đón ý quan trên, đưa đồ hối lộ.
            - Hối lộ cho quan khi đi công cán.
            - Phụ nữ hối lộ để xin gặp.
            - Người có việc hối lộ để nhờ chạy chọt nói giúp.
            - ...

Tập sách được Đặng Huy Trứ hoàn thành vào năm Đinh Mão 1867, sau 129 năm, những vấn đề ông đề cập, cho đến ngày nay vẫn tươi nguyên, những chứng bệnh giết chết xã hội ấy hầu như chưa hề thuyên giảm.

Ông nói về việc: "ĐỊA PHƯƠNG HỐI LỘ CÁC QUAN THANH TRA" như sau: Cửa vua xa cách muôn dặm khó thấu hiểu nỗi uẩn khúc của dân. Bất thần vua cử phái viên đi thanh tra, lại ủy cho thanh lý, chỉnh đốn mọi việc. Hoặc nhân có đơn tố cáo vượt cấp những việc bất công, phạm pháp. Hoặc nhân có tiếng tăm xấu xa của một viên quan nào đó lọt đến tai vua cho nên cử người đi bí mật xem xét. Các phái viên ấy, hoặc đi cải trang, hoặc không. Khi sắp đi đều được ban cấp tiền bạc, còn được huấn thị, một là "giữ lòng công, gác việc riêng"; hai là "đi đến đâu cũng phải như Trẫm tự mắt nhìn thấy", lời vua ân cần chu đáo nhường nào. Đi không cải trang ai cũng biết, còn có cải trang rồi thì tin tức cũng lọt ra ngoài. Đương sự biết là sự việc sẽ lộ ra, không khỏi bị phát giác. Song chưa rõ tâm tình ta như thế nào, cho nên họ đều chuẩn bị tiền nong, vàng bạc chờ xem thế nào sẽ biện lễ. Đến khi rõ ràng là không có tội, hoặc chẳng có công, thì lại biện lễ đón đưa, cầu ta đề đạt lên trên. Như thế là có nhiều ngóc ngách che đậy ẩn tình. Ta phải giữ lòng kiên định lời nói, cử chỉ, hành động phải giữ gìn, thận trọng, không quá mức. Hoặc giả làm kẻ lữ hành trong dân gian, hoặc làm kẻ sĩ du học tạm trú, không để lộ hành tung, nhằm cho kẻ kia biết không thể lay chuyển được chí ta, mà thôi lo việc gõ cửa chạy chọt. Xem xét, điều tra người đó, việc đó cho được mười phân rõ ràng xác đáng, để khỏi phải trái lệnh vua. Nhược bằng thấy họ quà cáp nhiều nói năng khéo, rồi bao nhiêu khiếm khuyết đều che đậy cho họ, rằng "không có gì đáng tội, không có gì đáng khen", rồi trên tờ trình đầy rẫy những lời tán dương khen ngợi, hơn cả ông Đỗ, ông Thiệu sống lại. Mang tâm địa ấy cứ tiếp tục leo lên, vạn nhất được trọng dung, vâng lệnh vua, cầm cờ tiết đi kinh lược việc lớn, quyền hành trong tay mà cứ như thế thì khác nào thác tự nguồn cao ập xuống, sẽ hại đến dân chúng trong thiên hạ không phải nhỏ. Triều đình còn trông mong gì nữa?" (sđd, tr. 41 - 42).

Cách phân tích của ông tuy chỉ gọi đích danh thứ hối lộ không thể nhận, còn tên của bọn mọt dân, dòi bọ ông không đếm xỉa, nhưng ta vẫn thấy rành mạch đầu cuối, chứng lý hằn hoi thể hiện một thái độ dứt khoát không hề nhượng bộ bao giờ. Đặc biệt rất dứt khoát khi ông đang tới loại: "QUAN LẠI THAM NHŨNG HỐI LỘ ĐỂ LẤY LÒNG QUAN TRÊN" (kiểu thứ 92), ông viết: "Trên đời này có một loại quan lại tham bạo, cướp bóc của dân để nuôi béo mình như loại lang sói. Chúng sợ ta phát hiện, hoặc ta giữ quyền cao chức trọng mà biếu xén lấy lòng để tạo con đường tiến thân sau này. Đó là những thứ bất chính. Thứ hối lộ ấy không thể nhận được" (sđd, tr. 114. 115).

Điệp khúc "THỨ HỐI LỘ KHÔNG THỂ NHẬN ĐƯỢC" luôn là kết luận chung sau những lời định tội đanh chắc: từ những tội nhẹ do chủ quan, sơ hở: "Chớ nghĩ rằng ta ngay thẳng, kẻ kia sao lừa dối được ta, ta sáng suốt xét đoán, kẻ kia không thể che giấu được ta. Chỉ sợ lâu ngày ta chẳng khỏi sa vào mưu mô của họ. Cho nên những kẻ không có việc gì mà cũng đưa quà biếu nhất thiết không thể nhận" (sđd, tr. 119) đến những tội nặng: "bất trung với vua, bất nhân với dân" (hối lộ để cầu được miễn giảm lính và thuế, sđd, tr.71); "Nếu thấy họ đút lót nhiều mà nhất loạt hồ đồ, không phân biệt kẻ xấu người tốt, để kẻ ác lọt lưới, pháp luật không nghiêm, tội ấy thật lớn" (Thuyền bọn phỉ người nhà Thanh giả làm thuyền buôn hối lộ, sđd, tr.97). Kèm vào những luận tội ấy là thái độ của tác giả, thái độ của những con người chân chính "Nếu đợi họ lại có lễ vật lót tay rồi mới giải quyết thì ra thể thống gì nữa?" (Sđd, tr.90); "Nếu nhận lễ vật mà đề đạt lên thì có thể nói đó là hành động vô liêm sỉ (sđd, tr.37); "Kẻ thuộc hạ hối lộ cầu được sắp xếp cho những việc béo bở, thế mà ta nhận thật là đáng khinh bỉ" (sđd, tr.46)... Đáng khinh bỉ, đáng ghét, đáng xấu hổ, đáng phỉ nhổ; là hèn hạ, là bỉ ổi, là thiếu lương tâm, là bất nhân, bất nghĩa, bất nghì... Tất cả đều làm tổn hại đến âm đức. Tổng luận của Đặng Huy Trứ nhẹ nhàng như một lời thức tỉnh lương tâm nhưng sâu sắc vì đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tâm hồn người Việt, là triết lý cộng đồng rất Việt Nam :

"Ta đã từng đốt hương thề nguyện đêm ngày gìn giữ mong trọn đời có thể không vi phạm năm điều cấm của thánh nhân. Con cháu ta ra làm quan, có ai phạm thì sẽ là hàng vô sỉ, sống không được vào từ đường, chết không được vào chầu tiên tổ. Trong họ có người hiền, có kẻ hư đốn, người trong họ phải giữ công tâm, cùng kiểm tra, bảo ban nhau. Không thể vì tình cốt nhục mà vị nể, nương nhẹ làm tổn thương đến gia pháp..." (Sđd, tr.125).

Gia pháp, gia phong đó cũng chính là gia bảo. Cần bảo vệ, cần phòng chống vẫn tốt hơn là cần phải tiêu trừ khi gia pháp "đã báo động cấp số nhân". Có lẽ vì vậy mà Đặng Huy Trứ - một mặt tỏ ra là một vị quan am tường luật pháp, định tội rất rõ sau mỗi kiểu mua bán lương tâm bằng những câu hỏi tu từ - tự vấn tự đáp để tự soi mình; ông còn là một vị quan nhân từ luôn chú trọng nêu những tấm gương sáng, những điển hình đẹp của Việt Nam, của nước ngoài, gần xa, để thức tỉnh lương tri:

"Ngưu Tăng Nhũ được phong hàm thị lang bộ Hộ. Lúc ấy Hàn Hồng vào làm việc trong triều. Sau cha con Hàn Hồng đều chết, các cháu còn nhỏ tuổi. Vua Mục Tông sai quan xem lại sổ sách trong nhà Hàn ở để giao lại cho gia đình. Trong sổ có ghi đầy đủ tên  những người đã nhận lễ biếu. Duy chỉ có bên cạnh tên quan chức của Tăng Nhũ có chua một hàng chữ: "Ngày này tháng này, đã đưa biếu Thị Lang những thứ này, từng này, nhưng ông khước từ tất cả". Mục Tông xem sổ rất mừng. Ít lâu sau triều đình bàn chọn Thừa tướng. Vua nhắc đến Tăng Nhũ đầu tiên". (Sđd, tr.115).

Dĩ nhiên để có quan thanh liêm,  thì phải có vua hiền tài. Chứ nhà dột từ nóc thì trắng đen lập tức sẽ lẫn lộn, xã hội sẽ điên đảo. Đời có người cầm cân nảy mực chính vì thế. Một trăm linh bốn điều mua bán lương tâm trong "Từ Thụ Yếu Quy" như một dòng chảy lạnh đến buốt xương, sưng tấy thịt, nứt toác da nhưng thật thấm thía tình người. Dù ông nói : "Tôi làm cuốn sách này chỉ để làm khuôn phép cho bản thân và con cháu, không dùng làm khuôn phép cho ai "song đó là sách của mọi nhà, sách gối đầu giường cho mọi người, đặc biệt nhất là sách của những ai được trao vào tay mình cái cân để nảy mực cầm cân cho thiên hạ.

Tâm sự của Đặng Huy Trứ là tâm sự của đời :
            "Mình thiệt, lợi dân, DÂN gắn bó
            Đẽo dân, mình béo, DÂN  căm hờn
            Hờn căm, gắn bó tùy ta cả
            Duy chữ THANH, THANH đối thế nhân".

Cả một đời, ông tâm niệm :
            "DÂN KHÔNG CHĂM SÓC, CHỚ LÀM QUAN"

Hãy đến với "Từ Thụ Yếu Quy", bạn sẽ thấy như tay được nối dài, mắt được nhìn rộng - trong thời kỳ tham những đang là quốc nạn này.

V.T.Q
(127/09-99)


-------------------------
(*) Nxb Pháp lý và Hội khoa học lịch sủ Việt Nam, Hà Nội, 1992.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.