100 NĂM NGÀY SINH HÀN MẠC TỬ VÀ 7 THẬP KỶ BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VỸ GIẠ”

15:10 27/03/2012

Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.

Chân dung Hàn Mạc Tử, tranh của Thanh Trí

Nhân hướng tới 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử (1912-2012) và 7 thập kỷ bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ", Sông Hương xin trân trọng giới thiệu góc nhìn rất tinh tế của nhà phê bình Đặng Tiến; bài viết và bản dịch hai thứ tiếng Anh, Đức của tác giả Trương Đình Ngộ, cùng hai bản nhạc phổ thơ Hàn của nhạc sĩ Phạm Duy và Khúc Dương.


Hàn Mạc Tử và bài thơ thôn Vỹ

ĐẶNG TIẾN

Đây thôn Vỹ Giạ trong phong trào thơ mới 1932-1945 có lẽ là một trong vài bài thơ phổ biến nhất, đã được đem ra giảng dạy tại nhà trường dưới nhiều chế độ khác nhau, có thể vì nhiều lý do khác nhau. Bài này chỉ nêu lên giá trị nghệ thuật, trên nhiều địa tầng khác nhau.

Bài thơ làm khoảng nửa sau năm 1939, khi tác giả đã bị bệnh phong hủi nặng, đang điều dưỡng tại Quy Nhơn. Thơ làm khi nghĩ tới, hay để gửi cho người tình trong mộng là Hoàng Cúc sau khi nhận được một tấm bưu ảnh bà gửi từ Huế.

Tiểu truyện kể lại rằng, trước đó, 1932, chàng 20 tuổi, nhà nghèo, làm ở sở đạc điền Quy Nhơn. Nàng mười tám, mười chín, gia đình khuê các, thân phụ là cấp trên của Hàn. Hai người có lúc cùng ở chung đường. Tình thơ mộng, đơn phương của tuổi hoa niên. Chàng đã từng làm nhiều thơ ca ngợi:

Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương


Sau đó, 1934, nàng theo gia đình về Huế; chàng bỏ việc vào Sài Gòn viết văn, làm báo. Khi biết mình bị chứng nan y, 1936, Hàn về lại Quy Nhơn. Sau đây là lời Hoàng Cúc, tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, trong một lá thư gửi cho Quách Tấn ngày 15-10-1971.

(Sau khi được tin Hàn bị bệnh nặng) «thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và một bài khác nữa do Ngâm gửi về…». (Hoàng Tùng Ngâm, bạn thân của Hàn, là em con chú với bà Kim Cúc).

Chứng từ giúp ta hiểu thêm hoàn cảnh sáng tác, nhưng bài thơ không phải là minh họa cho tấm bưu ảnh. Điều đặc biệt là không khí trong sáng, dịu dàng của tác phẩm hoàn toàn tương phản với căn bệnh ngặt nghèo đang vào thời kỳ cuối của tác giả, lúc đó. Theo hồi ký của Nguyễn Bá Tín, em ruột của Hàn:

«Những năm 1938-1939, nhất là năm 1939, anh đau dữ dội hơn hết. Tâm trạng anh biến đổi nhiều qua thơ anh. Giai đoạn này anh sống nửa mơ nửa thực, thường hay xuất thần không biết gì (tr.90)».

Trích dẫn hai khổ thơ đầu, ông Tín cho thông tin: «Hai loại thơ nói trên được sáng tác trong cùng một giai đoạn, trong cùng một hoàn cảnh bệnh tật. Cùng trong túp lều tranh xơ xác, dưới cây phượng vĩ tàn tạ, bên bờ biển hoang vắng mà hai trạng thái tâm hồn hoàn toàn khác biệt nhau tùy theo cảm hứng. Tâm trí anh từ ngày đau nặng, vẫn mơ ước thoát khỏi thân tàn ma dại, khỏi không gian và thời gian[1]…». Trong một hồi ký vừa được in thành sách mới đây, 2010, Bùi Tuân, bạn thân Hàn Mạc Tử đã xác nhận đời sống cơ cực này, tại một xóm nghèo cạnh Quy Nhơn.

Chứng từ như thế thật quý giá. Tuy nhiên, trong một ấn bản sau, Hà Nội 1994, cũng về hai khổ thơ đầu, ông Tín lại giải thích khác đi. (Xem chú thích số 4 đoạn dưới).

Như vậy, chúng ta đã có cái khung về hoàn cảnh sáng tạo bài thơ, giữa năm 1939. Nhưng văn bản xuất hiện lần đầu, ở đâu, thì chúng tôi không biết, chỉ dựa theo văn bản trong sách Trần Thanh Mại, 1941. Ông xếp bài thơ vào thi tập Xuân Như Ý, dưới tên Đây Thôn Vỹ Giạ (tr.223), chúng tôi tôn trọng chính tả này. Ấn bản sau đó, 1942, Hoàng Trọng Miên xếp vào tập Đau Thương, dưới chính tả Vỹ Dạ, thịnh hành ngày nay, và dưới tên Hàn Mặc Tử.

*

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…


Là một trong dăm ba câu thơ đẹp và trong sáng nhất trên nền trời thơ Việt Nam. Thần diệu trong đơn giản, câu thơ gợi lên một không gian đơn sơ nhưng tuyệt vời - và không gian ngoại thành Huế ấy cũng là phong cảnh quê hương chung của chúng ta, mà có lần Văn Cao đã khắc họa «bóng cau với con thuyền, một dòng sông».

Đây Thôn Vỹ Giạ gồm 3 đoạn, đều cấu trúc trên nhiều câu hỏi, mở đầu bằng chữ Sao. Chữ sao, nghi vấn và biểu cảm, khơi nguồn một bài thơ, sẽ là một đặc sắc của thơ mới:

Sao buổi đầu xuân êm ái thế… (Xuân Diệu)

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong… (Thâm Tâm)

Nhạc điệu tân kỳ: câu thất ngôn Việt Nam nhịp 3/4; câu thơ đường luật nhịp 4/3. Câu thơ Hàn Mạc Tử khác lạ, khoan thai, tự nhiên 2/3/2 

Sao anh / không về chơi / thôn Vỹ

Sáu âm bằng liên tiếp, nhịp những bước chân đều, dừng lại ở âm trắc cuối câu. Mãi sau này ta mới gặp âm điệu ấy ở Nguyễn Đình Thi:

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt

Hay trong Bên kia Sông Đuống của Hoàng Cầm:

Anh đưa em về sông Đuống…

…Ai về bên kia sông Đuống

…Bao giờ về bên kia sông Đuống


Độ dài ngắn từng câu có phần xê xích, nhưng âm hao thì gợi nhớ câu thơ Hàn Mạc Tử.

Địa danh sông Đuống đưa âm trắc bất thường về cuối câu, nhắc đến tên thôn Vỹ.

Trần Thanh Mại[2] là người uyên bác và đã dày công đưa ra chuyên luận đầu tiên về một nhà thơ đương đại, và đề cao Hàn Mạc Tử, từng ca ngợi bài thơ này như một «viên ngọc vô ngần quý giá (tr.60), nhưng lại chê câu đầu là một «sơ suất»: câu ấy là một câu nói thường chứ không thể là một câu thơ, «Vỹ» cũng không vần với «lên» với «điền» hay với «ngọc» được (tr.224).

Hàn Mạc Tử hoàn toàn theo đúng âm luật khi dùng vần trắc như thế, như ông đã làm nhiều lần: «trăng nằm sóng soải trên cành liễu», và như Huy Cận viết «sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp». Chỗ này, ngược lại, là một «sơ suất» của chính Trần Thanh Mại, có lẽ vì chủ quan và viết vội. Còn nói rằng, đây «là một câu nói thường, không thể là một câu thơ» là một lỗi thẩm âm. Thơ hay, là khi câu thơ đi gần tới văn xuôi mà không phải văn xuôi; văn xuôi hay là khi câu văn đi gần tới thơ nhưng không là thơ. Ví dụ từ Xuân Diệu:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò


Câu trước văn vẻ, trau chuốt, hay cái hay thông thường của văn chương; câu sau hồn nhiên, hay cái hay kỳ diệu của chất thơ, một nghệ thuật vượt qua kỹ thuật. Câu thơ hay thường khi là ngôi sao sáng một mình, mà Roman Jakobson gọi là hiện tượng câu thơ mồ côi, không phải trường hợp câu «sao anh không về chơi thôn Vỹ», vì âm điệu mà ông Mại cho là «trái tai», đã chuẩn bị cho một câu khác, ở phần sau, cũng ngoại luật:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Bình thường, theo âm luật, thì trong câu thơ thất ngôn, chữ thứ hai và thứ sáu phải cùng một thanh, hoặc bằng, hoặc trắc.
 

Bút tích Hàn Mạc Tử, một ngày trước khi qua đời, ghi "thơ cầu nguyện đề tặng anh Xê. François Trí"

Bài Đây thôn Vỹ Giạ là một trong ba bài Trần Thanh Mại đưa ra để chứng minh rằng «hầu hết thơ bảy chữ của Hàn Mạc Tử không kể bài thơ dài ngắn, đều đã theo luật bằng trắc của Đường thi (…) âm điệu hiển nhiên, bất di bất dịch, không còn bác bẻ được nữa» (tr.222). Nhưng… Hàn đã bác bẻ: bài thơ thôn Vỹ gồm ba đoạn mà cả hai đoạn đầu… không niêm. Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính… không bao giờ làm thơ «thất niêm» như vậy.

Nêu lên vấn đề này, không phải để đôi co với Trần Thanh Mại - người tôi cảm phục - mà chỉ để nói rằng, trên câu thơ mở đầu một bài thơ được truyền tụng vẫn có đôi điều cần thưa đi gửi lại.

Ngay từ Sao khơi nguồn bài thơ đã là một từ ý nhị và tế nhị. Bình thường nó là từ nghi vấn. Nhưng khi viết «Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung» thì Huy Cận không hỏi ai điều gì.

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng chữ sao 73 lần, có khi trong 4 câu liên tiếp: «khi sao…, giờ sao… mặt sao… thân sao…», nhưng thường dùng trong chức năng biểu cảm.

Từ sao đầu bài thơ dào dạt nhiều tâm tình, chủ yếu là lòng chờ đợi, mà ta đã gặp trong những bài thơ đầu tay của Hàn như trong Tình Quê:

 …Cách nhau ngàn vạn dặm
 Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không ngóng đợi
Dầu ai không lắng nghe…


Hai khổ thơ sau cũng cấu trúc trên thể nghi vấn, «thuyền ai… có chở… ai biết», nhưng không để hỏi, dù là tự hỏi, mà chỉ thể hiện lời đối thoại nội tâm, như những vòng sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ. Những trầm tư hòa điệu kỷ niệm với ước mơ, những tiếc nuối mông lung, nhớ nhung bàng bạc, những tình cảm không tên, có khi đã man mác trôi qua hay chập chờn chưa hình thành. Những dự phóng, hồi quang dang dở. So đo, đem từng câu thơ ra diễn giảng một cách duy lý là không thể. Dịch ra tiếng nước ngoài cũng khó.

*

Sao anh không về chơi thôn Vỹ


Thanh điệu làm nổi bật chữ «về», dấu huyền, giữa câu, đáng lẽ phải là âm trắc theo quy luật Gió theo lối gió, mây đường mây. Chữ «về», đắc địa và đắc ý, là một từ rất Huế. Người Việt dùng chữ về để diễn tả sự trở lại: về nhà, về làng, về nước, về nguồn…; người Huế, đi đến nhà bạn, ở xa, cũng dùng chữ «về», thân ái, tâm tình. Mỗi tình bạn là một quê hương, một đợi chờ, «một cõi đi về» như tên bài hát của một người Huế, Trịnh Công Sơn. Lại mang máng nhớ thêm: «Sao em không về… Trong cơn đau vùi… Làm sao có nhau…» Phạm Duy, không phải người Huế, cũng viết Về Miền Trung, và đã tế nhị lập lại nhiều lần động từ về trong nghĩa tâm tình đó. Mà về, thôn Vỹ xa xôi, chỉ để «nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên».

Tiếng Việt phân biệt nắng với mặt trời. Thấy nắng trước khi thấy mặt trời; câu thơ diễn tả niềm vui, có khi là hạnh phúc, khi bắt gặp tia nắng trên đọt cau, rồi mới ý thức được ánh sáng ngoại giới, êm ả như cảnh Nắng trong vườn của Thạch Lam. Nắng đẹp thường là nắng mới, và nắng sớm; và đẹp nhờ thiên nhiên phản chiếu. Cây cau đẹp vì thân mảnh mai cao vút, cắt những tàu lá nhọn rủ xuống trên nền trời; lá trúc cũng vậy. Tàu cau, cành trúc giúp ta yêu một màu trời, nâng tầm nhìn và tầm suy nghĩ lên cao để yêu một khóm mây, một làn gió, một tia nắng quái, một mảnh trăng non.

Người Huế, chính xác hơn là người Vỹ Dạ, Bửu Ý đã có lời ca ngợi tàu cau trong bóng nắng chiều thậm hay: «Ở làng quê, cây mau cao nên chiều mau xuống (…). Tàu cau nhễu bớt bụi sáng xuống nụ tầm xuân. Chị ru em bằng tiếng hát bèo trôi» [3].

Nắng mới lên thoạt tiên trên những đọt cau có khi còn lóng lánh sương đêm, rồi mới xuống dần, xuống dần, theo từng đốt thân cau, cao và thẳng đứng, xuống dần đến mảnh vườn xanh như ngọc.

Vườn ai mướt quá

Từ «ai» đã từng gây hiểu lầm. Nó là từ phiếm định, không chỉ riêng vườn của một chủ nhân nào cụ thể, mà có nghĩa là một mảnh vườn nào đó, của ai đó, như chữ ai trong câu cuối tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh «đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…». Vì tính cách phiếm định đó mà trong các bản dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Ngoại văn, Hà Nội (1975, tr. 438), hay Gallimard-Unesco, Paris (1981, tr. 149), người dịch đã sử dụng số nhiều «les jardins», thậm chí «mặt chữ điền» cũng số nhiều. Bản Peras và Vũ Thị Bích, Paris (2001, tr.161) dịch vườn ai thành «un jardin» cũng trong thể phiếm chỉ.

Sở dĩ phải dài dòng như vậy, vì gần đây, có người giải thích «vườn ai» là ám chỉ vườn bà Kim Cúc, khiến bà đã bất bình vì vườn bà không trồng cau, là loại cây «bình dân», «và cũng không ai trồng cau ở Vỹ Dạ»[4]

*

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền


Vườn. Ôi vườn xưa trong những bóng trưa! Người xưa tượng trưng hạnh phúc địa đàng trong một khu vườn. Tôi mường tượng là một khu vườn thôn Vỹ, đơn sơ như lời tả của Bửu Ý, bạn tôi: bụi hóp sống chung với hàng chè tàu, vườn trước thì nở tằn tiện một hai khóm hoa đủ làm vui mắt người đi đường. Đã có người gọi đồng bằng sông Cửu Long là văn minh Miệt Vườn, cũng có người gọi văn hóa Huế là văn hóa Vườn, mà Lê Quý Đôn đã từng ca ngợi. Vườn ai mướt quá… Âm hao mềm mại, óng ả, lưu luyến nhờ những nguyên âm đôi, làm nổi bật chữ ai dịu dàng, tình tứ, rất Huế: ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai mong… thuyền ai thấp thoáng trên sông.

Lá trúc che ngang… Lá trúc ở đây, là rào dậu, phân định ranh giới của vườn. Không rào dậu thì không thành vườn.Vườn là một địa phận môi giới, giữa cõi trong và cõi ngoài, chưa phải là cõi riêng nhưng không còn là của chung. Là trung gian giữa thiên nhiên và văn hóa. Là nhân loại chuyển mình từ đời sống du mục sang đời sống định cư, là giấc mơ đoàn tụ giữa Chức Nữ với Ngưu Lang, lời tình tự lứa đôi, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ… Là hạnh phúc có khi đang thực tại, có khi trong ước mơ hay niềm tiếc nuối một thiên đường đã mất. Thiên đường xanh những mối tình thơ dại, chẳng hạn, như thơ Baudelaire, một trong những bậc thầy của Hàn Mạc Tử.

Hãy trả lại cho Hàn Mạc Tử hàng cau thôn Vỹ trong những vườn trăng: «ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo».

Câu văn này, mở đầu lời Tựa tập Thơ Điên, tình cờ thôi, như cô đọng cả bài thơ Thôn Vỹ, một dòng suối tuôn ào ra khỏi tâm tư. Nó là một tâm cảnh, một thực thể duy nhất, cần được nhìn và cảm nhận như một tổng hòa toàn bích, và cảm nhận bằng trực quan thẩm mỹ.


Một tác phẩm nghệ thuật, bản nhạc, bài thơ, bức tranh, là sáng tác của một cá nhân nghệ sĩ, trong một khoảnh khắc, một địa phương nhất định, nhưng đồng thời nó cô đúc rung cảm của nhân loại từ muôn nơi, muôn thuở. Câu thơ:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay


Không khỏi gợi nhớ một câu của Trương Nhược Hư (đầu thế kỷ 8) trong Xuân giang hoa nguyệt dạ (Đêm hoa trăng trên sông xuân, nguyên là tên một điệu hát xưa):

Thùy gia kim dạ thiên chu tử
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu.


(Nhà ai đêm nay dong thuyền nhỏ
Chốn nào tương tư lầu sáng trăng)

Không cần dịch khó khăn, tôi bê nguyên câu thơ HMT vào:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
(Trăng sáng lầu ai thương nhớ ai)


Xem đại ý, thậm chí lấy từng chữ ra mà so, cũng không xê xích bao nhiêu. Mà cũng chưa chắc Hàn Mạc Tử đã biết Trương Nhược Hư. Nghệ thuật quả là một thế giới kỳ diệu.

Sau đó:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Là một câu thơ khó hiểu. Ai mơ, chủ từ của động ngữ là gì? Người dịch ra tiếng nước ngoài, để tạo mạch lạc với câu tiếp theo, thường cho khách đường xa làm chủ từ. Đây là một trong nhiều cách tiếp cận; nhưng câu thơ có thể không duy lý, mà chỉ là lời lẩm bẩm trong một giấc mơ thức tỉnh, và cả đoạn thơ chập chờn như một giấc mơ, gợi nhớ đến bài Mon rêve familier (Giấc mơ thân thuộc) của Verlaine, thậm chí bài Nắng mới của Lưu Trọng Lư «chập chờn sống lại những ngày không», dĩ nhiên là nội dung khác biệt.

Khách đường xa có thể là hồi âm câu đầu sao không về, qua một không gian đã trùng trùng xa cách.

Áo em trắng quá: trắng màu trinh nguyên, ngây thơ, vô nhiễm, linh hiện trong giấc mơ vô tội. Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong… lung linh, huyền huyền ảo ảo, mờ sương mờ khói.

Sương khói ở đây là thời gian xa cách, che lấp và bôi nhòe, tan biến. Như ý một câu thơ cổ, trong Hoa Tiên: đã sương đã khói đã vài năm nay. Nhân ảnh là từ Hán việt duy nhất trong bài thơ, một từ uyên bác trong cõi nôm na, tạo thêm nét cổ kính, trang trọng cho một lời tâm sự đơn giản. Có lẽ tác giả đã mượn ở Cung oán ngâm khúc một hình ảnh vô cùng hợp tình hợp cảnh: Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. Trong bài thơ thôn Vỹ, chữ nhân ảnh có nghĩa là hình bóng người xưa, một chút nghĩa cũ đang mờ dần nhạt dần với thời gian. Nhưng hiểu rộng ra, trong kinh Phật, nó còn diễn tả kiếp sống mong manh, có có không không. Các cụ sẽ xem câu thơ đây là điềm dữ cho tác giả, một câu thơ «trệ», báo hiệu việc không may. Như cái chết sắp đến.

Hiểu như vậy là lìa xa văn bản, nhưng xích gần lại định mệnh thảm khốc của nhà thơ.

Vì chỉ khoảng một năm sau khi sáng tác Đây thôn Vỹ Giạ, Hàn Mạc Tử qua đời, đi vào Vườn trăng Vĩnh viễn.

Orleans, 21.2.2012
Đ.T
(SH277/03-12)


Phụ chú:

Nhân đây cũng xin nhắc lại một thông tin, lối nhìn tùy tiện qua một bài báo, Đây thôn Vỹ Dạ một tiếng thở dài đáng quý trên báo Người Giáo Viên Nhân Dân, 1/1990, của một ông Lê Đình Mai nào đó. Theo bài báo, thôn Vỹ là một ổ điếm, và Hàn Mạc Tử đã có công «phản ánh kiếp sống giang hồ, tố cáo tệ đoan của xã hội cũ, trong một bài thơ hiện thực, nhân đạo, một tiếng thở dài đáng quý». Ôi thánh tai và thánh tai!




 



[1] - Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, tr.94. Nxb Tin, 1990, Paris.

[2] - Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941, Nxb Võ Doãn Mại, tái bản 1942, Sài Gòn.

[3] - Bửu Ý, Dạ Khúc, báo Văn, 1965, in lại trong Ngày tháng thênh thang, tr. 48, Nxb Văn Học, 2011.

[4] - Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử trong riêng tư, phần 4, trên mạng lưới dunglac.org. Đã in, 1994, Hà Nội.

Theo ông, thì bà Kim Cúc, 1939, có gửi tặng HMT một tấm hình 6/9 mặc áo dài lụa trắng, đã gợi ý cho bài thơ. Theo nhiều nguồn tư liệu khác, thì bà chỉ gửi một bưu thiếp mua ở tiệm ảnh Tăng Vinh, cửa Thượng Tứ, Huế.

Ông Tín còn cho rằng cuộc tình duyên bất thành vì lý do tôn giáo. Rồi giải thích: «Gió theo lối gió mây đường mây. Lương giáo không hòa đồng, ân tình khó kết hợp. Thân thế anh như một đám bắp bến đò Cồn hướng về thôn Vỹ Dạ… Hai câu kết ý Hàn nói phải chăng vì đời sống trầm hương của chị Cúc «sương khói» đã che mờ đi bóng dáng con người nhân thế của anh» (internet). Lối giải thích này dĩ nhiên là thô thiển nhưng cũng cần biết đến.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.