“Trình tự” trong thời gian nghệ thuật của ăn mày dĩ vãng và nỗi buồn chiến tranh - tiếp cận từ lý thuyết thời gian của Genette

16:46 26/09/2008
TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.

Nói đến trình tự tức thứ tự trên dưới, trước sau của văn bản nghệ thuật. Trình tự này được sắp xếp như thế nào là do tác giả. Nếu một câu chuyện diễn ra hoàn toàn theo trình tự biên niên của nó thì giữa thời gian tự sự và thời gian lịch sử trùng khích nhau, nếu chúng được đảo thì sẽ tạo ra độ lệch nhất định. Sự không tương thích giữa thời gian của chuyện và thời gian truyện cho ta khoảng cách, được Genette gọi là thời sai, thời sai (anachronies) lại được chia thành 2 dạng là đảo thuật (còn gọi là hồi cố) và dự thuật (còn gọi là dự báo). Mỗi cách xử lý sẽ mang lại hiệu quả nghệ thuật khác nhau, tác phẩm đạt được giá trị thế nào đó là do tài năng sáng tạo của họ. Ra đời cùng một thời kì văn học, cùng đều viết về người lính thời hậu chiến. Ngay khi mới ra đời cả Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đều đã nhận được những giải thưởng lớn. Nhưng điều cơ bản và cũng là giải thưởng lớn nhất dành cho cả hai tác phẩm là chúng luôn sống trong lòng bạn đọc. Một trong những vấn đề tạo nên sự thành công đó theo chúng tôi cả hai tác giả đã xử lý theo kết cấu đảo thuật thời gian, phá vở cấu trúc truyện truyền thống.

Chúng tôi đã tìm hiểu một số khía cạnh liên quan đến nhân vật như: thời gian xuất hiện, thời gian hết xuất hiện, thời gian chết, thời gian bỏ đi hoặc chết giả gọi chung là “Thời gian cái chết của nhân vật”, và thật thú vị, chúng như những con số “biết nói” nói lên đặc điểm của mỗi kiểu thời gian, mỗi kiểu xử lý.
Số lượng và tỉ lệ nhân vật chết và bỏ đi trong Nỗi buồn chiến tranh lớn hơn nhiều so với Ăn mày dĩ vãng. Phần lớn nhân vật nói tới trong Nỗi buồn chiến tranh đều chết hoặc bỏ đi, có cái chết cá nhân nhưng cũng có cái chết tập thể như: Thịnh “Nhớn”, Cừ, Vĩnh (trang11); Từ, Thanh, Vân (tr12)… Ở đây ta thấy thời gian cái chết của các nhân vật phần lớn là được nói tới cùng lúc mà thời gian nhân vật xuất hiện trong văn bản. Nghĩa là nhân vật chết hoặc bỏ đi ngay trang hoặc xung quanh một vài trang bắt đầu xuất hiện. Có 10/15 nhân vật “thời gian chết” được nói tới cùng trang “thời gian xuất hiện”; phần lớn thời gian từ khi bắt đầu xuất hiện đến khi hết xuất hiện trong văn bản chỉ một hoặc vài trang… Điều đó nói lên gì? Trước hết là bức tranh ảm đạm, bi thương về những cái chết do chiến tranh mang lại, những người sống sau chiến tranh, không chết trong chiến tranh thì cũng chết dần chết mòn trong hoà bình và cuối cùng bỏ ra đi. Cách xử lý để cái chết đến với nhân vật ngay thời điểm nhân vật xuất hiện một phần nữa nói lên những ám ảnh lớn lao của Kiên đối với quá khứ đồng thời nó phản ánh đúng bản chất của hồi ức, giấc mơ của nhân vật. Một điều nữa là qua đó để thấy rằng tác giả không lựa chọn cách kể theo tiến trình trước sau, từ xuất hiện đến diễn ra sự việc rồi mới đến chết. Tính logic của nhân vật, của sự kiện vì vậy không có. Thời gian hết xuất hiện trên văn bản của nhân vật phần lớn là lớn hơn thời gian của cái chết điều đó tạo ra tính đảo thuật lớn trong tác phẩm này.

Gần như ngược lại, Ăn mày dĩ vãng có kết cấu đảo thuật nhưng có những điểm khác. Cái chết trong tác phẩm này ít hơn cả số lượng lẫn tỉ lệ. Ba điểm mốc: thời gian nhân vật xuất hiện đến thời gian cái chết và thời gian hết xuất hiện trong văn bản là thời gian tăng dần, tiến triển theo mủi tên thời gian. Chỉ trừ Hai Hợi (chết giả) chênh lệch 2 trang còn lại các nhân vật khác cái chết dường như trùng cùng một trang với thời gian hết xuất hiện của nhân vật có nghĩa là tác giả kể theo vận động thời gian của nhân vật cho đến khi nhân vật chết là hết kể như: Thu 145 - 145; Khiển 100 – 100; Bảo 84 – 84; Viên 38 – 38… Nhưng một văn bản mà cứ kể theo sự tiếp diễn như vậy thì không thể tạo ra tính đảo thuật. Ta thấy tuy kể như thế nhưng các nhân vật không phải được kể một cách liền mạch mà chen vào giữa là những “bloc” khác. Khi kể Tám Tính trong 15 trang văn bản nhưng tác giả đã kể kéo dài từ trang 44 đến trang 287; khi kể về Hai Hợi chỉ 21 trang nhưng đã kể kéo dài từ trang 62 đến 309. Và liên tiếp tác giả cho đan xen quá khứ hiện tại, sự kiện này sự kiện kia tạo cảm giác chờ đợi, lôi cuốn.

Nếu ở Ăn mày dĩ vãng mỗi “bloc” là một lát cắt của sự kiện thì trong Nỗi buồn chiến tranh mỗi “bloc” là mỗi vòng tròn đồng tâm. Hầu như trong Nỗi buồn chiến tranh không có sự kiện hành động mà chỉ là sự kiện tâm trạng hay nói cách khác tâm trạng về sự kiện. Khó mà tìm được sự liên kết sự kiện theo kết cấu nhân quả như trong Ăn mày dĩ vãngNỗi buồn chiến tranh. Các “bloc” như là những phần tử riêng lẻ, rời rạc nhưng thực ra chúng cũng như những phần tử tròn trặn xoay quanh một vòng tròn lớn hơn đó là tác phẩm. Thực ra chúng có chất keo gắn kết hết sức chặt chẽ, tâm của chúng chính là tâm trạng nhân vật Kiên. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thể hiện ngay trong phần mở đầu tác phẩm. Chúng tôi tạm chia phần này thành các “bloc” sau:

“Bloc” A, hành trình của đội thu nhặt hài cốt (tr 5 - 6).
“Bloc” B, kí ức về B3 bị bao vây và tiêu diệt (7 - 10).
“Bloc” C, những ngày bài bạc (tr 10 - 13).
“Bloc” D, hút hồng ma (13 – 15).
“Bloc” E, những hồn ma ở đèo Thăng Thiên (tr 15 – 17).
“Bloc” F, Can đào ngũ (tr 17 – 26).
“Bloc” G, xung quanh vụ thám báo và ba cô gái bị bỏ quên (tr 26 - 47).

Ta nhận thấy từ A đến G thời gian văn bản là 42 trang nhưng có tới 7 “bloc”, trừ hai “bloc” cuối thì các “bloc” còn lại chỉ chiếm 1 đến 2 trang văn bản. Mỗi “bloc” là một sự việc khác nhau, các mốc thời gian của các “bloc” đứng cạnh nhau cách xa nhau và bị xáo trộn hoàn toàn, nếu “bloc” A sự việc diễn ra năm 1976 (sau hoà bình một năm), thì “bloc” B lùi về năm 1969, tiếp đó là “bloc” C thì lại đẩy về 1975 “năm ngoái đó thôi”… nghĩa là các “bloc” được sắp xếp một cách ngẫu hứng lộn xộn, xuôi ngược, ngược xuôi. Nhưng chúng có một lôgic nội tại đó là tâm trạng thông qua giấc mơ. Thời gian quá khứ hiện về theo giấc mơ là những sự kiện buồn bả về cõi B3 tiểu đoàn 27 năm xưa, các sự việc không theo trình tự nào cả mà theo trình tự trong giấc mơ của nhân vật Kiên.

Dĩ nhiên không phải trong tiểu thuyết này không có những sự kiện lặp lại. Thực sự đây cũng là một vấn đề thú vị không kém, chúng tôi nhận ra rằng dẫu có sự lặp lại của các sự kiện thì chúng cũng không phải là những lát cắt, không phải là kể những vấn đề tiếp theo của sự việc trước. Như chúng tôi đã nói, dường như chúng là những sự kiện khác nhau, là một vòng trong khác. Ta bắt gặp trong câu chuyện người kể chuyện kể về Hoà cô giao liên năm xưa hai lần, Hiền chiến sĩ phế binh hai lần… Nhưng mỗi lần là một vùng kỉ niệm, chúng là những vòng tròn đồng tâm, vòng tròn sau được nới rộng chu vi hồi ức về nhân vật đó, như những đợt sóng hồi ức, vòng tròn một chỉ mờ nhạt, đến vòng hai thì đậm nét hơn. Vòng tròn thứ nhất, trong giấc mơ trở lại truông Gọi Hồn, Kiên đã mơ thấy Hoà. Trong gần 1 trang (49 – 50), hình ảnh Hoà hiện lên: sơ qua về lai lịch, “trong màn sương mù dày đặc của giấc mơ, tôi chỉ thấy Hoà thấp thoáng”, cảnh tượng Hoà gục ngã giữa thảm cỏ và một bầy Nguỵ xô tới. Vòng tròn thứ hai, kí ức đau thương về Hoà lấy cái chết để giải cứu cho Kiên và các thương binh: tình cảnh đoàn cáng thương; tình hình lục sùng của địch; gặp hồ Cá Sấu; Hoà và Kiên tìm đường; phát hiện có địch; Hoà xông lên đánh lạc hướng; địch đuổi theo và giết Hoà (tr218 – 232). Như vậy giữa vòng tròn một và vòng tròn hai không phải là sự kế tiếp mà là một sự mở rộng. Đọc xong “bloc” vòng tròn một người đọc không nghĩ không chờ đợi vì không biết tác giả có tiếp tục kể đến nữa không vì nó đã như một sự trọn vẹn trong phạm vi của nó. Đến vòng tròn hai người đọc lại được biết thêm thông tin, rõ hơn về sự kiện trước nhưng cách kể không phải là sự kế tiếp của cái trước mà kể theo ấn tượng và cảm hứng. Mỗi vòng tròn được hình thành bởi một nguyên nhân, nếu vòng một nguyên nhân từ những giấc mơ về truông Gọi Hồn thời Mậu Thân thì vòng hai nguyên nhân từ những hồi tưởng về những cái chết của đồng đội và người quen để cứu sống Kiên. Chúng đồng tâm là cùng nói lên tâm trạng buồn, đau đớn khi nghĩ về Hoà. Như vậy có thể nói, với việc chọn cách kể theo dòng hồi ức, thời gian giấc mơ, thời gian quá khứ tạo nên nét riêng đặc sắc cho những “bloc”, cho kết cấu thời gian của tác phẩm.

Thời gian tự sự được bắt đầu từ một điểm giữa của chuyện, cốt truyện vận động tiến tới theo những trăn trở sáng tạo nghệ thuật của nhân vật - nhà văn Kiên. Chọn điểm bắt đầu như vậy dĩ nhiên sẽ hứa hẹn một sự đảo tuyến dày đặc thông qua thời gian quá khứ. Thời gian quá khứ được cụ thể hoá bằng các thời gian giấc mơ, hồi tưởng, liên tưởng, kí ức. Các loại thời gian này tuỳ theo tính chất phản ánh lại tạo ra các loại thời gian huyền ảo, tâm linh… Nỗi buồn chiến tranh là một dòng suối tâm trạng, dòng suối đó bắt nguồn từ những mạch ngầm khác nhau, tất cả đều làm đầy dòng chảy tấm trạng. Vì vậy chúng ta chỉ tìm được sự liên kết các sự kiện thông qua ký ức nhân vật. Để sử dụng thời gian quá khứ người kể chuyện bao giờ cũng đứng ở vị trí thời gian hiện tai. Nhớ về quá khứ bao giờ cũng có nguyên nhân từ hiện tại, bất cứ một sự trở về quá khứ nào của Kiên trong tiểu thuyết cũng có nguyên nhân từ hiện tại. Nói chung tuỳ thuộc vào dòng liên tưởng, chùm liên tưởng, chứ không phụ thuộc vào trình tự, ngày tháng… Bởi thế mà có người đã ví Nỗi buồn chiến tranh như hiện tượng “sau vụ nổ”. Điều đó có thể chấp nhận vì sau vụ nổ mọi thứ bị bắn tung ra xung quanh “ngổn ngang”, “bừa phứa”, nhưng chúng đều xuất phát từ điểm nổ và tất cả chúng đều là những phần tử xung quanh tâm nổ.

Nói như thế không có nghĩa là Nỗi buồn chiến tranh không có những sự kiện vận động tạo nên sự phát triển thời gian cốt truyện. Nếu như vậy thì tác phẩm không thể có cốt truyện, vậy để tạo nên sự vận động cho cốt truyện tác giả đã làm như thế nào?
Chính những trần thuật đơn là xương sống cơ bản tạo dựng cốt truyện. Mặc dù chúng có thể được xáo trộn, có thể được đan xen nói cách khác chúng được lắp ghép từ nhiều mảnh.
Theo ngôn ngữ của kỹ thuật điện tử thì kiểu thời gian lắp ghép sử dụng “kỹ thuật vi mạch”, một hình thức có khả năng khiến cốt truyện giảm độ căng nhiều nhất, đem lại cho tiểu thuyết dáng vẻ gọn gàng, linh hoạt, tinh xảo mà vẫn đa tầng, đa lớp có sức chứa thông tin rất lớn. Sự lắp ghép này tạo nên một cấu trúc có vẻ “hỗn độn bên ngoài”, “một mê cung đầy những ổ khoá”, có khả năng kích thích tư duy và sáng tạo của độc giả, buộc người đọc phải lặn sâu vào tác phẩm, sống trong thế giới của nhân vật để khám phá.

Ta thử xét sự kiện Hùng tìm cách tiếp cận bà giám đốc Tư Lan để tìm hiểu về sự thật chứng minh cho điều đó. Có thể được chia sự kiện thành:
“Bloc” A, phát hiện và nhận diện (trang 5 – 32).
“Bloc” B, Hùng trở lại nhà hàng tìm hiểu qua bác thường trực (49 - 61).
“Bloc” C, Hùng trở lại mai phục để tìm hiểu (trang 86 – 90).
“Bloc” D, Hùng cải trang để tiếp cận (trang 193 – 206).
“Bloc” E, cuộc đối thoại giữa Hùng và Tư Lan tại trụ sở (trang 238 – 248).

Chúng tôi tạm sơ đồ hoá mối quan hệ giữa hai loại thời gian như sau:

Nếu gọi A,B,C,D,E là trình tự thời gian tự sự của sự kiện; 1,2,3,4,5 là trình tự thời gian cốt truyện của sự kiện thì thứ tự thời gian cốt truyện sẽ là: 1A, 2B, 3C, 4D, 5E và trình tự thời gian tự sự sẽ là: A1: B2, C3, D4, E5.
Từ A đến E là một quá trình phát triển theo tuần tự từ muôn tiếp cận đến tiếp cận được vì vậy mỗi “bloc” là một lát cắt của sự kiện, chúng quan hệ với nhau bằng mối quan hệ logic nhân quả. Sự kiện này kéo dài khoảng 66 trang văn bản và chia 5 “bloc”. Số trang văn bản này lại được kể rải rác kéo dài từ trang 5 đến trang 248, giữa chúng được đan xen các sự kiện khác cho nên đây là tiểu thuyết kết cấu theo thời gian đảo tuyến xen kẽ trình tự, điều đó lí giải vì sao khi đọc tác phẩm ta bị lôi cuốn bởi yếu tố trinh thám của nó.
Còn đối với Nỗi buồn chiến tranh, có hai mạch vận động chính, một mạch là vận động sáng tạo của Kiên – quá trình hình thành bản thảo cuốn tiểu thuyết, và một nữa là mạch vận động tình yêu – kí ức về Phương. Chúng ta thử lần theo dòng hồi ức của Kiên để xem tác giả đã xử lý mạch vận động tình yêu như thế nào.
Lần lượt theo thời gian tự sự chúng tôi thống kê được 19 “bloc” kể về nhân vật Phương như sau:
Phương tuổi 17 (tr14. 4dòng).
Phương bỏ đi (tr74 - 75).
Gặp Phương đầu tiên sau chiến tranh (tr86 - 89).
Kiên đánh người tình của Phương (tr89).
 Kỉ niện tuổi 17 bên bờ sông (130 - 131).
Đoàn tàu bị bom ở ga Thanh Hoá (132).
Tình cảm đặc biệt của cha Kiên với Phương (144 - 146).
Chuyện tình của Kiên và Phương bên bờ hồ (147 - 155).
Những ám ảnh về Phương theo suốt đời lính của Kiên (156 - 159).
Cuộc chia tay vĩnh viễn với Phương (160 - 165).
Kỷ niệm với Phương tuổi 13 (181 – 184).
Tâm trạng Kiên những lúc Phương tiếp làng chơi (184 - 186).
 Ngày Kiên lên đường (186 - 201).
Kỷ niệm về Phương ở Đồ Sơn (202 - 207).
Đoàn tàu vào Vinh (207 - 209).
Tàu vào nhà ga Thanh Hoá (210 - 214).
Những đổi thay trong căn phòng Phương (241 - 243).
Kí ức về những lần xem phim cùng Phương (244 - 246).
Bất hạnh đến với Phương (246 - 272).

Vận dụng mô hình xử lý thời gian của Genette chúng tôi đưa chúng về thời gian lịch sử (thời gian chuyện) theo thứ tự sau: 1.K - 2.N - 3.G - 4.A - 5.E - 6.H - 7.M - 8.O - 9.P - 10.F - 11.S - 12.I - 13.C - 14.D - 15.L - 16.Q - 17.R - 18.J - 19.B.
Vậy là đã có một sự đảo lộn rất lớn trong trình tự của chúng. Sự việc sau kể trước, sự việc trước kể sau, không thể tìm được một sự lôgic nào trong chuỗi sự kiện này. Chúng đã được tác giả sắp xếp lại một cách “lộn xộn”. Nó là một sản phẩm của cảm hứng “rối bời”, “bừa phứa”. Nhưng chính chúng đã là linh hồn, là xương sống để tạo nên cốt truyện cho cuốn tiểu thuyết này vì khi chúng ta sắp xếp chúng lại theo thời gian chuyện thì chúng có sự vận động về thời gian trước sau, từ khi Phương 13 tuổi đến khi Phương bỏ ra đi vĩnh viễn.
Chúng tôi thử mô hình hoá mối quan hệ giữa chúng như sau:
 

Nếu Ăn mày dĩ vãng mặc dù đảo tuyến nhưng vẫn theo trình tự (sự việc trước đảo trước, sự việc sau đảo sau) thì ở đây điều đó dường như không thấy. Trình tự trước sau của thời gian tự sự là: 4.A - 19.B - 13.C - 14.D - 5.E - 10.F - 3.G - 6.H - 12.I - 18.J - 1.K - 15.L - 7.M - 2.N - 8.O - 9.P - 16.Q - 17.R - 11.S. Sự việc xuất hiện rải rác từ trang 14 đến trang 272, nghĩa là kí ức về Phương kéo dài gần như từ đầu tới cuối văn bản. Sự vận động thời gian tự sự thông qua nhân vật Phương được người đọc cố gắng sắp xếp lại, liên tưởng để tạo nên mạch vận động của câu chuyện. Người đọc dường như chẳng biết sự kiện tiếp theo tác giả sẽ kể gì vì thế câu chuyện luôn tạo ra những bất ngờ, những ấn tượng này qua ấn tượng khác. Để xới tung sự kiện, làm cho sự việc không trình tự, xắp xếp không lôgic nhưng vẫn logic thậm chí còn lôi cuốn và rất uyển chuyển trong cách thể hiện không phải cái gì khác ngoài sự vận dụng một cách tối ưu các loại thời gian được trần thuật để xử lý.

Với cách xử lý thời gian trong hai tiểu thuyết, quá khứ, hiện tại, tương lai luôn đồng hiện. Đưa mọi sự lên mặt bằng ngày hôm nay, đứng ở hiện tại để thấy có những vấn đề cần phán xét, nhìn nhận, đánh giá lại. “Nhà tiểu thuyết với ngòi bút của ông ta, lại có thể đạt đến mượn các thứ kỹ xảo nghệ thuật khiến thời gian khó mà “siêu việt” có được sự “siêu việt”, thời gian khiến ta cảm thấy “không tự do” dường như cũng có thể đạt đến trong miêu tả của tiểu thuyết”(1).

T.Q.H
(nguồn: TCSH số 225 - 11 - 2007)

 


------------------
(1) Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Quốc gia Hà Nội.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.