Sông Hương xứ Huế đã bao đời miệt mài làm nên những nét tinh tế và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đó là dòng chảy giao hòa và dung hợp của nét văn hóa truyền thống dân gian với văn hóa cung đình với những con người Huế với những nét đặc trưng không lẫn với bất cứ nơi nào về giọng nói, tiếng cười, điệu hò và những món ăn Huế hấp dẫn.
Phạm Thị Phương Thảo
Hiếm có dòng sông nào lại đẹp và duyên dáng như sông Hương, xứ Huế. Một dòng chảy lững lờ mà sâu lắng, nước xanh mênh mang mà mát rượi lòng ta. Từ xa xưa chắc hẳn ai cũng từng ít nhất một lần nghe nói đến vẻ đẹp hữu tình của sông Hương núi Ngự, bên vẻ đẹp thơ mộng của cầu Tràng Tiền và những tiếng hò Huế trên sông. Nghe đâu đó trong hồn ta đã thấp thoáng ẩn hiện bóng dáng của những người con gái Huế với chiếc nón Bài Thơ và tà áo dài màu tím mộng mơ năm nào:
"Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió chiều vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ"
(Trong đôi mắt Huế-Đông Hồ 1939)
Với thời gian bảy trăm năm lịch sử, Hương Giang thơ mộng ngày nay đã mang trong mình những lắng đọng với bao trầm tích phù sa của dòng chảy lịch sử có tự bao đời. Từ thuở xa xưa sông Hương đã mang những cái tên linh nhiệm là Linh Giang, Lô Dung rồi Kim Trà. Với những cái tên gọi dịu dàng ấy, sông Hương vẫn mềm mại uốn lượn để ôm ấp và nâng niu vóc dáng xứ Huế và làm nên nét đẹp hồn cốt trong tâm hồn Huế như một tất yếu của dòng chảy lịch sử bên đời.
"Đất Thừa Thiên trai hiền, gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc, đền rồng
Tháp Bảy Tầng, Thánh Miếu, Chúa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, còn đợi khúc âu ca thái bình."
(Ca dao Huế)
Được Hương Giang yêu thương chảy vào lòng và Xứ Huế thì cứ ấp iu dải lụa mềm mại ấy và dùng dằng mãi để rồi tới lúc dòng chảy cũng phải ùa ra biển lớn Thuận An:
"Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu…"
Đó là những câu thơ đặc tả dòng sông Hương vô cùng ấn tượng của Nhà thơ Thu Bồn với cốt cách con người Xứ Huế. Còn với nhà thơ Bích Khê thì Huế còn lúng liếng và đa tình hơn nhiều:
“Dòng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn
Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say
Non xa trăng đã tròn đầy
Em ơi để mặc lòng ngây lên mùa”.
Nơi đây là vùng đất truyền thống cố đô xưa và chốn lưu giữ nhưng di tích lịch sử, những nét kiến trúc của đền đài và Kinh đô Huế tự xa xưa để tạo nên những nét trầm mặc, kiêu sa và đài các. Cao Bá Quát khi xưa đã có sự ví von dòng sông một cách độc đáo và giàu sức liên tưởng đầy hào khí của kẻ sỹ trước non sông gấm gấm vóc:
“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng
Sông dài như kiếm dựng trời xanh”
Xứ Huế còn là dòng chảy bất tận và giao thoa của văn hóa làng xã với văn hóa chốn cung đình với từng vùng miền, mang đậm đà sắc thái Phú Xuân và non nước Hương Bình. Sông Hương chảy qua Kim Long và Vỹ Dạ, bồi đắp nên những thôn làng đất đai trù phú và cây lá xanh tươi. Bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mạc Tử còn ghi dấu ấn trong thi ca Việt Nam:
“Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Sông Hương xứ Huế đã bao đời miệt mài làm nên những nét tinh tế và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đó là dòng chảy giao hòa và dung hợp của nét văn hóa truyền thống dân gian với văn hóa cung đình với những con người Huế với những nét đặc trưng không lẫn với bất cứ nơi nào về giọng nói, tiếng cười, điệu hò và những món ăn Huế hấp dẫn.
Nhắc đến Sông Hương là nhắc đến dòng chảy giao hòa và đậm đặc của những hồn thơ lai láng và bền bỉ của bao thế hệ. Con người Huế với nét văn hóa “đặc sệt” từ giọng nói, dáng đi, điệu ca …và cả những nét trầm tư cũng riêng biệt đã làm nên sự độc đáo mà vẫn giữ nét truyền thống. Nơi đây đã nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn cho biết bao văn nhân, thi sỹ và những tao nhân mặc khách dẫu chỉ đôi lần đặt chân đến Huế.
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư…”
( Trương Tuyết mai- Huế tình yêu của tôi)
Đã có biết bao nhạc sỹ, họa sỹ, nhà văn, nhà thơ tên tuổi đã sinh trưởng và thành danh từ mảnh đất này và những kiệt tác của họ đã làm nên một bản hòa tấu đậm đà hương sắc riêng có của Xứ Huế trong tâm hồn Việt. Sông Hương mãi là nguồn cảm hứng và dòng chảy bền bỉ của thi ca nhạc họa. Cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã gắn bó với xứ Huế nhiều năm và hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh năm xưa mãi còn bâng khuâng và da diết với ca khúc “Diễm Xưa” khá nổi tiếng trong lòng công chúng yêu nhạc Trịnh. Ông đã để lại cho đời nhiều ca khúc mang đậm dấu ấn Huế và cả miền tâm linh. Huế chính là “ Một cõi đi về” của ông, những ca khúc mang tính triết lý cao về thân phận con người với nhiều hương vị lãng mạn và lãng đãng cả màu khói sương cùng những cơn mưa Huế khi xưa .
“Mưa vẫn bay bay qua miền tháp đổ
Dài theo em mãi khóe mắt xanh xao…"
Có lẽ không ở đâu mà tâm hồn thơ ca lại nở rộ và đậm đặc theo dòng chảy lịch sử như nơi đây. Cả những người con không sinh ra và lớn lên ở Huế nhưng cũng không khỏi đắm đuối với vẻ mơ màng đầy ám ảnh chỉ với một sắc áo xanh khi “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” như cố nhạc sỹ, thi sỹ, họa sỹ Văn Cao năm nào:
“Em cạn lời thôi, anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”.
(Văn Cao)
Hình ảnh dòng sông với những con đò xưa như những “con mắt của sông Hương” còn lưu dấu trong thi ca qua những vần thơ của Nguyễn Xuân Sanh:
“Ơi con đò, con mắt yêu thương
Nhìn chúng, ta say đắm lạ thường
Ai đến bên lòng ta khẽ bảo
Con đò, con mắt của sông Hương”
Thuở nhỏ, chắc hẳn mỗi chúng ta đều biết sông Hương qua bài thơ“ Cô gái sông Hương” của nhà thơ Tố Hữu với những câu thơ rất gợi từ xa xưa với trong veo trời và nước sông Hương:
“Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang…”
Hay những câu thơ của ông như những lời thủ thỉ và tâm tình đậm đặc giọng Huế của một nhà thơ cách mạng vẫn còn vang vọng bên tai năm nào:
“Tiếng hát ai mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi…tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”.
Đó là âm hưởng cuộc sống vất vả của không ít những con người cần lao khi xưa trên mảnh đất cố cung Huế với cả nối nhọc nhằn và cay đắng:
“Bên chợ Đông Ba tiếng gà gáy sáng
Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương tiếngsóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng”
(ca dao Huế)
Còn bây giờ khi đêm xuống, dưới ánh trăng lung linh sóng nước, bạn bước xuống thuyền Rồng và thả hồn nghe ca Huế và nhạc cung đình thì còn gì hạnh phúc và lãng mạn hơn. Những điệu hò Huế năm xưa lúc này cũng được tái hiện lại qua tiếng ca ngọt ngào của những chàng trai, cô gái Huế trên những chiếc thuyền Rồng chở khách du sông và những làn điệu “Mười Thương” đậm chất Huế vẫn làm say đắm lòng biết bao du khách từ khắp nơi đến thăm Huế qua tiếng hò mái nhì, mái đẩy khoan nhặt.
Bạn còn thưởng thức làn điệu sông nước khoan nhặt qua tiếng đàn tranh và giọng Huế ngâm thơ đầy nỗi niềm cứ man mác trên sông:
“Chiều chiều trước bến Vân Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy trạnh lòng nước non”
Sông Hương còn là nơi ta gửi gắm hồn mình và lòng sông soi gương bóng nước, biết vỗ về, che chở ta trong những kỷ niệm khó quên nhất:
“Sông vẫn tần ngần thao thiết lặng câm
Chở gió về cánh đồng mơ ước
Chở mơ ước về chân trời
Chở chân trời tới mắt em buồn như dấu hỏi
Nghe cọng cỏ già ướt dưới chân đê”
( Bài Trong mưa của Văn Công Hùng)
Nhà thơ Phạm Bá Nhơn lại có những câu thơ khác trong bài “Về Huế” với từng cơn mưa dầm và rét đậm như:
“Yêu thương Huế cơn mưa dầm rét đậm
Để bốn mùa hoa trái kết thành thơ
Huế đẹp mãi với người đi kẻ đến
Chung thủy, chân tình, ấp ủ trong mơ”.
Dòng chảy cuồn cuộn ấy lan tỏa đến các thế hệ không chỉ ở Huế và sông Hương. Ngay cả với chúng tôi, dòng chảy Sông Hương cũng luôn vẫy gọi và tưới mát tâm hồn mỗi người. Đối với các thi sỹ thì Hương Giang sẽ là cái duyên mặn mà, cái tình khó quên và là nguồn cảm hứng vô tận về con ngươi, về cuộc sống và những vỉa tầng văn hóa Huế ấy đã được kết tinh và lưu giữ lâu dài:
“Nếu như chẳng có dòng Hương
Câu thơ Xứ Huế giữa đường đánh rơi”
(Nhà thơ Huy Tập)
Chúng tôi chợt nhớ đến các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng gắn bó với dòng Hương giang như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ,Nguyễn Khắc phê, Nguyễn Khắc Thạch, Hồ Đăng Thanh Ngọc…những người con tài hoa của Xứ Huế, những người giữ vai trò Tổng biên tập của Tạp chí Sông Hương từ những ngày đầu thành lập cho đến tận bây giờ. Tạp chí Sông Hương đã bước sang tuổi ba mươi với một vóc dáng và tâm thế đáng nể. Với một chặng đường dài đã qua, Tạp chí Sông Hương đã trở thành người bạn thân thiết của những người yêu thích văn chương và độc giả trong và ngoài nước. Dòng chảy Sông Hương mang đậm bản sắc Huế ấy đang giao hòa và lan tỏa đi khắp mọi miền và thu hút được đông đảo giới văn chương.
Chúng tôi gặp nhà văn, nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc trong dịp lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp chí Sông Hương. Hiện nay anh đang giữ vai trò Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, một con người trẻ trung, năng động và đầy nhiệt huyết. Không phải ngẫu nhiên mà Tạp chí văn học của Huế lại mang tên dòng “Sông Hương” thơ mộng, nơi mà lịch sử và dòng chảy thời gian làm dày thêm những vỉa tầng văn hóa và trầm tích thêm những lớp phù sa của dòng chảy thi ca Huế qua bao thế hệ.
Hương Giang làm say lòng biết bao đấng tài hoa là những họa sỹ, nhạc sỹ, thi sỹ tài danh và tên tuổi, giúp họ nuôi dưỡng đam mê và khát khao sáng tạo từng ngày. Hương Giang cũng gắn bó và làm say lòng bao con người yêu thương và nặng lòng với Huế ở khắp nơi:
"Vốc tay say với dòng Hương
Nhón chân, ngược bước nẻo đường tìm thơ".
(Đêm Hương Giang- Nguyễn Trọng Liên)
Các thi sỹ đều trở nên đa tình trước Sông Hương:
"Ta thành lữ khách đa tình
Vắng em ,mây núi Ngự Bình bơ vơ
Vớt lên một nửa câu thơ
Đợi em…mòn cỏ đôi bờ Hương Giang"
(Huế đã sang thu- Đào Trọng)
Sông Hương cũng đang dâng đời và tặng bạn từng giọt say như ruợu nồng. Sông Hương mang đến dòng chảy đam mê và ngọt ngào. Cả những nỗi buồn về nhân tình thế thái và những nỗi trầm luân kiếp người với từng giọt sông và giọt đời cũng đang trôi chảy không ngừng:
“Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh đền đài ngả nghiê ng say…”
(Nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ Nguyễn Trọng Tạo)
Ngay lúc này những câu thơ về Xứ Huế của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo năm nào, con người bao năm đã nặng lòng với Huế lại được những người bạn văn thơ của chúng tôi ngân nga đọc lên cùng với anh và bè bạn bởi những tâm hồn yêu thơ, yêu đời và tình yêu tha thiết với Sông Hương và Xứ Huế mộng mơ.
Phương Thảo rất vinh dự được là khách mời của Tạp chí Sông Hương và được tặng một áo thơ có in những câu thơ của mình:
"Ru đêm mật ngọt
Tròn căng giữa đời
Thương về trăng khuyết
Mỏng cong kiếp người"
(Trăng khuyết)
Phạm Thị Phương Thảo
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...