Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm từ trần

10:43 03/11/2015

 Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm vừa qua đời lúc 8g15 ngày 2-11 (nhằm ngày 21 tháng 9 Ất Mùi), hưởng thọ 84 tuổi.

Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm (1932-2015)

PGS. Trần Thanh Đạm  sinh năm 1932 tại xã Lộc Thủy, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 17 tuổi, ông đã vinh dự giảng dạy ở trường Sư phạm Nam Ninh. Trải qua mấy chục năm tự đào tạo, rèn luyện, đi thực tập ở Nga (bổ sung cho vốn Anh, Pháp, Hán…), giáo sư đã có một kiến thức rất rộng sâu: “Chữ nghĩa văn chương tám vạn tư/ Học thời không thiếu… cũng không dư”…  Ông từng là giáo viên Trường trung học Kháng chiến Nguyễn Chí Diểu, giáo viên Khu học xá Trung ương, giáo viên Trường Sư phạm Trung cấp trung ương, phó trưởng Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội 1, hiệu trưởng Trường ĐHSP TP.HCM, phó viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục, trưởng Bộ môn Văn học nước ngoài Khoa Ngữ văn và Báo chí Trường ĐHKHXHNV (ĐHQG TP.HCM). ủy viên Hội đồng Lý luận Phê bình Nghệ thuật Trung ương, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Gắn bó với quê hươn Thừa Thiên Huế, ông từng đoạt giải của Hội Văn nghệ Thừa Thiên (năm 1950). PGS. Trần Thanh Đạm là tác giả của nhiều công trình khoa học đặt nền móng cho công tác nghiên cứu văn học nước nhà như Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (1968), Tục ngữ và vấn đề nguồn gốc văn chương, Dẫn luận văn học so sánh, Tuyển tập văn thơ Nguyễn Trãi (1980).

PGS. Trần Thanh Đạm là thầy giáo của nhiều thế hệ sinh viên ngữ văn khắp cả trong nam ngoài bắc.  Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm được tặng Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Hiện linh cữu quàn tại Nhà tang lễ TP: 25 Lê Quý Đôn, quận 3;

Lễ viếng bắt đầu lúc 16g ngày 3-11 (22 tháng 9 Ất Mùi);

Lễ động quan lúc 6g ngày 5-11 (24 tháng 9 Ất Mùi);

Linh cữu hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

Các công trình khoa học đã xuất bản của Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm:

1. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (1968)

2. Tục ngữ và vấn đề nguồn gốc văn chương

3. Dẫn luận văn học so sánh

4. Sự chuyển tiếp của văn chương Việt Nam sang thời kỳ hiện đại

5. Trích giảng văn học lớp mười phổ thông / Huỳnh Lý, Lương Thanh Tường, Trần Thanh Đạm... - H. : Giáo dục.  1964

6. Giảng dạy văn học Việt Nam (Phần cổ điển và cận đại) ở trường phổ thông cấp ba / B.s: Trần Thanh Đạm, Bùi Văn Nguyên, Tạ Phong Châu. - H. : Giáo dục, 1966

7. Tuyển tập văn thơ Nguyễn Trãi / Trần Thanh Đạm, Phan Sĩ Phấn chọn bài, chú thích, giới thiệu. - H. : Giáo dục, 1967

8. Thơ văn Nguyễn Trãi / Trần Thanh Đạm, Phan Sĩ Tuấn tuyển chọn ; Đổ Ngọc Toại dịch nghĩa và chú thích thơ chữ hán ; Khương Hữu Dụng dịch thơ. - H. : Giáo dục, 1980

9. Văn học và cuộc sống : Tập lý luận - phê bình văn học / Mai Thanh, Trần Thanh Đạm, Chu Giang... - H. : Lao động, 1996

10.Làm văn 12 : Sách giáo viên / Trần Thanh Đạm (ch.b), Nguyễn Sĩ Bá, Lương Duy Cán, Hoàng Lân. - Tái bản lần thứ 2. - H. : Giáo dục, 1999.

11. Làm văn 11 : Sách giáo viên / Trần Thanh Đạm (ch.b), Nguyễn Sĩ Bá, Lương Duy Cán, Hoàng Lân. - Tái bản lần thứ 3. - H. : Giáo dục, 1999

12. Làm văn 10 : Sách giáo viên : Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000 / Trần Thanh Đạm (ch.b), Lương Duy Cán. - H. : Giáo dục, 2000

13. Văn Tâm Điêu Long / Lưu Hiệp ; Dịch: Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo. - H. : Văn học, 2007

 

Trường Giang

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Lăng mộ của chúa Nguyễn Phúc Tần còn được gọi là lăng Chín Chậu, có nhiều nét độc đáo so với lăng mộ các chúa Nguyễn khác.

  • BAVH - là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại Việt Nam và Pháp từ năm 1914 đến năm 1944. Thế là tròn 100 năm ra đời bộ tạp chí danh tiếng này.

  • Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.