“Miền thương nhớ” của Hà...

09:14 11/02/2020

TRẦN THÙY MAI  

Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

Hà nhỏ hơn tôi đến 15 tuổi, cách gần một thế hệ, mà sao lại có những kỷ niệm giống nhau quá. Như vậy, chắc cũng sẽ nhiều bạn đọc tìm thấy trong tập văn này những ấn tượng gần gũi, thân thương.
 

Như là hình ảnh “hoa “thầu đâu”, mùa nhãn lồng, hay những chiếc vỏ ve sót lại trên gốc cây cổ thụ đầu hè. Hay như kỷ niệm về ngày tết, tưởng chừng “không giống ai” mà chắc lại giống rất nhiều em bé ngày ấy, vì... tôi cũng đã từng như thế: “…những năm nhỏ tuổi, mạ may cho bộ đồ mới và đôi dép mới, tôi đã mặc thử áo quần và đi dép mới ngay trên giường, nhất quyết không xuống đất, chỉ đi vài bước rồi gói tất cả lại, chờ đúng sáng Mồng Một Tết…”. Cũng rất quen, khi Hà tả cái cảm giác ước ao, thèm khát nhìn theo trẻ hàng xóm chơi đèn lồng Trung Thu, khi Hà kể những viễn tưởng mênh mang trong tâm hồn cô bé ngây thơ tha thẩn bên gốc khế trong vườn. Ôi những trái khế chua khế ngọt trong vườn Huế, chen trong chùm hoa nho nhỏ hồng hồng tím tím xinh xinh. Cây khế quen thuộc đã đi vào cổ tích và cả trong ca dao: “Mưa lâm dâm ướt dầm lá khế/ Anh thương một người trong Huế đã lâu…”. Nhà thơ Nguyễn Bính viết về mưa Huế: “Trời mưa ở Huế sao buồn thế? Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày…”. Hà là dân Huế, lớn lên cùng với mưa, không sợ cái lê thê buồn bã của mưa mùa đông. “Hôm nay mưa mà hàng cây muối, hàng phượng vàng như đang reo vui. Cây không lạnh. Một thời, tôi cũng không thấy lạnh khi dầm mưa.” Còn mưa hè thì vui như hội, bởi tắm mưa là một cái thú chỉ trẻ con ngày xưa mới được hưởng. “Tắm nước mưa là rôm sảy lặn nhanh, da thịt mát mẻ…. Tiếng í ới gọi nhau, tiếng cười đùa giòn giã, một bầy trẻ nhỏ làm rộn rã cả xóm. Có lẽ nhờ thế mà với tụi em, mưa không hề buồn.” Còn lụt nữa. Lụt Huế thế nào thì hầu như ai cũng biết rồi. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã viết: “Quê hương em nghèo lắm ai ơi/ Mùa đông thiếu áo, hạ thời thiếu ăn. Trời hành cơn lụt mỗi năm…”. Nhưng Hà, người Huế, sống chung với lũ từ khi thơ dại, Hà nhớ dai nhất không phải cái hung tàn của lụt mà là hình ảnh ấm áp tình người, giữa cái rét mướt, thiếu thốn: “Thức đêm canh lụt nên nhà nào cũng để đèn. Trong màn đêm tối đen, nước chảy bao quanh, nhà nọ nhìn nhà kia thấy có ánh đèn cũng yên lòng. Đó là những ánh đèn báo hiệu bình an, “Có tôi còn thức nè, đừng sợ!” Thật lạ lùng, Hà nói về thời tiết khắc nghiệt, về thiên tai, về những gì chính mình đã, đang và sẽ còn chịu đựng, vậy mà đọc xong trong lòng người đọc vẫn đọng lại hai từ: Vui và An. Tôi không khỏi suy ngẫm, vì sao vậy? Rồi chợt ngộ ra khi nhớ lại câu châm ngôn: “Tâm bình, thế giới bình”. Niềm vui và sự bình an đến từ lòng tốt và tình thương, như tác giả đã tự nhắc nhủ mình: “...Tự dặn lòng mình đừng làm tổn thương ai, đừng khinh khi ai, đừng bỏ lại đằng sau những người “đi chậm trong cuộc sống để đừng ai thấy mình đang bị bỏ rơi, bị tụt lại đằng sau quá xa và cô đơn trên hành tinh này...”. Hơn ba chục bài viết, với rất nhiều chi tiết và ý tưởng, ban đầu tưởng chừng như tản mạn, nhưng đọc kỹ mới thấy tất cả đều châu tuần quanh một đề tài: Tâm hồn của một người phụ nữ Huế hồn hậu, vị tha, lạc quan và chịu thương chịu khó. Có hai hướng nhìn xuyên suốt toàn tập: Một là nhìn về quá khứ, sống lại những kỷ niệm tuổi thơ; hai là nhìn vào hiện tại và tương lai, ghi nhận, cảm xúc, và chia sẻ… Hà nói về mùa hoa dã quỳ ở Đà Lạt, về miền cổ tích Phú Yên, về những vùng quê, vùng biển gần xa… Là một phóng viên của Đài truyền hình TRT, Hà đi nhiều, lăn lộn nhiều với từng thôn từng xóm, nên mới cảm thấy được mùi thơm của đất, mới nhận ra vị ngọt lành trong nắng, trong mưa, trong cỏ cây… Đã hơn nửa đời người, đi khá nhiều nơi nhưng đến lúc đọc tập tản văn của Diệu Hà, tôi mới nhận ra ngay gần đây thôi có nhiều thứ mình chưa biết như vậy. Ví như tôi đã chưa hề biết ở quê ta có loại cỏ trên là “cỏ bàng”, một thứ cỏ bền bỉ, đã giúp cho dân cả vùng có thêm cơm ăn áo mặc. Hay là tôi đã ăn bún bò, nấu bún bò, mê bún bò cả đời mà cũng nghĩ món ăn này chỉ hấp dẫn với người Việt Nam thôi, chứ không ngờ chuyên gia ẩm thực tầm cỡ thế giới, Anthony Boudain, cũng đã vinh danh bún bò Huế: “… là món súp tuyệt vời nhất mà tôi từng nếm thử.” Hay là ở Huế đã từng có một “Bồ Tát” giữa đời thường, một người đàn ông gần 40 năm đi khắp nơi trên chiếc xe đạp cũ, vào từng nhà xin gạo cho người nghèo, để đến bây giờ “Hũ gạo Ôn Siêu” vẫn là một hình ảnh cảm động ghi sâu trong ký ức người dân phường phố. Để mô tả cái hiền của người dân một vùng đất, Hà ví von “Họ hiền như những con cá cơm”. Văn của Hà và con người Hà cũng vậy! Bạn nào đã sống qua thời thơ ấu ở miền Trung thì đã hiểu thế nào là hương vị của một tô canh cá cơm rồi đó. Nhưng con cá nho nhỏ trắng ngần, mềm múp dễ thương, nằm lẫn với rau me hay rau bông ngọt, nêm chút xíu ruốc đậm đà. Một món canh khiêm nhường nhưng thật là “the thía”, dù sau này có ăn tới cao lương mỹ vị gì rồi cũng không quên. Tôi nghiệm ra rằng cả cuộc đời của con người cũng chỉ là những vận động nối tiếp nhau giữa hai chiều hướng: Đi và về. Như là nguồn và biển, nội tâm và ngoại giới, quá khứ và tương lai, quê hương và thế giới. Hà dẫn ta đi giữa hai chiều kích ấy, đường đi tuy chưa xa lắm nhưng Hà sẽ còn đi nữa, và không bao giờ sợ lạc vì đã có những ràng buộc với quê hương và tuổi thơ rất sâu bền. Dù ở chiều nào, đi hay về, vẫn xuất phát ở tình người hồn hậu, thiết tha, đằm thắm. Chỉ ước mong sao ai đi cũng có ngày về. Vì vậy mà đọc hết “Xứ mưa không buồn” rồi, lòng tôi vẫn thương thương, nhớ nhớ khôn nguôi, vẫn chưa hết bồi hồi với câu hỏi của Hà: Miền thương nhớ ở đâu?

Cựu Kim Sơn, tháng bảy 2019
T.T.M  
(SHSDB35/12-2019)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.