“Màu thời gian" đã đến lúc sáng tỏ (*)

14:55 29/11/2022

NGUYỄN KHẮC PHÊ

"Màu thời gian" là bài thơ nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ; đến mức các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã từng nhận định: "không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế".

Ảnh: tư liệu

Nhưng sự nghiệp Đoàn Phú Tứ không chỉ có “Màu thời gian" như giáo sư Hoàng Thiệu Khang đã viết. Đoàn Phú Tứ còn là người sáng lập ban kịch Tinh Hoa năm 1936, với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát... Ban kịch đã sống lâu nhất trong thời đó (8 năm) và đã đi diễn tận Huế, Đà Nẵng, Hội An. Có thể nói đây là đoàn kịch nói bán chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam từ 60 năm trước. Đóng góp của Đoàn Phú Tứ cho nghệ thuật sân khấu còn hơn thế. Trong cuốn "Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam" (NXB Văn hóa - 1978) hai tác giả Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý đã thừa nhận trước 1945 "về mặt sáng tác kịch bản, Vi Huyền Đắc và Đoàn Phú Tứ là những lá cờ đầu".

Vậy mà trong nhiều thập kỷ, các công trình nghiên cứu, các cuộc luận bàn về văn học nghệ thuật hầu như không nhắc đến tên tuổi Đoàn Phú Tứ; bài thơ "Màu thời gian" cũng hầu như bị lớp bụi thời gian che mờ. Chỉ vì ông là một trong 6 người chủ xướng "Xuân Thu nhã tập" mà tập sách này từng bị lên án là “mang nội dung bí hiểm... rơi vào hố sâu của nghệ thuật tư sản bế tắc...". Hơn nữa, cuộc đời ông có một khúc quanh "không sáng tỏ" - ông đã bỏ kháng chiến, "vào thành" năm 1951.

Cho đến những năm gần đây, trên tinh thần đổi mới văn học nghệ thuật, sự nghiệp của nhà văn Đoàn Phú Tứ từng bước được đánh giá lại một cách công bằng. Và lần này, với công trình "Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm" dầy gần 700 trang, nhà nghiên cứu Văn Tâm đã dựng lại một cách đầy đủ và sinh động cuộc đời Đoàn Phú Tứ với tất cả những bước thăng trầm, những trăn trở đến đau đớn trên con đường tìm đến cái Đẹp của Nghệ thuật và cái Đạo làm Người. Hầu hết tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Phú Tứ trừ các tác phẩm dịch đã được tập hợp ở đây, bài thơ "Màu thời gian", 8 vở kịch, 3 tiểu luận đăng trong "Xuân Thu nhã tập" và báo "Thanh Nghị", 2 bút ký và 6 tiểu luận về sân khấu viết sau Cách Mạng tháng Tám. Tác phẩm dịch của ông gồm trên 10 cuốn (với bút danh Tuấn Đô) đều là những tác phẩm lớn của thế giới và do NXB Văn Học xuất bản như các tiểu thuyết Đỏ và đen, Păngtagruyen, các vở kịch của Môlie, Sếchxpia, Ipsen, A. đơ Muyxê, Bômacse... Với các công trình dịch thuật này, ông đã được tặng thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam (1983 - 1984).

Tác giả Văn Tâm đã tỏ ra rất công phu trong việc sưu tập tài liệu, tìm gặp các nhân chứng, nên đọc tập sách, chúng ta không chỉ hiểu rõ về cuộc đời một con người mà còn như được gặp gỡ một thế hệ, được sống lại một thời văn nghệ "tiền chiến". Để lại được đánh giá một cách công bằng và toàn diện về Đoàn Phú Tứ, bản thân tác giả đã rất bình tĩnh và "công bằng" trong khi trích dẫn các cứ liệu và bình luận. Như về "Xuân Thu nhã tập", tác giả đã không ngại dẫn ra 6 ý kiến từ trong Nam ngoài Bắc, cả trước và sau Cách Mạng tháng Tám từng lên án tập sách này là “duy tâm", “bế tắc", "thần bí", “tối tăm"... Nhưng rồi chỉ riêng việc NXB Văn Học cho tái bản "Xuân Thu nhã tập" (1991), trong đó ở đoạn cuối có mấy dòng hồi ức của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát "người trong cuộc": "...nếu không có một cái nhóm văn, thơ, kịch, nhạc, họa ngày ấy, thì chưa chắc tôi đã bền bỉ đi vào nhạc dân tộc... Qua các tư duy nghệ thuật và các hoạt động của nhóm Xuân Thu nhã tập, tôi đã học được rất nhiều điều", chúng ta đã có thể tin nhóm văn chương 6 anh em ấy là "những người tuổi còn rất trẻ, những người thực sự có tâm, có tài, mong muốn được góp sức cho đời" như nhà thơ Nguyễn Bao đã viết...

Bài thơ "Màu thời gian" cũng đã được làm sáng tỏ như thế. Ngoài nhận định của hai tác giả "Thi nhân Việt Nam", Văn Tâm còn cho chúng ta biết cả ý kiến của vị tướng văn võ kiêm toàn Nguyễn Sơn. Ông thú nhận "không hiểu nổi" nhưng "cứ nhớ nhớ, nó thanh thoát, nó lâng lâng, như khi nhìn áng mây trôi, khi ngắm dòng nước chảy... nó lung linh như một khúc nhạc thiều..., nó chập chờn như một bóng Liêu Trai!". Thực ra, hồi đó vị tướng chỉ không hiểu ý nghĩa cụ thể và "sự tích" dẫn tới bài thơ, còn bây giờ, qua lời giải trình của Đoàn Phú Tứ với một người bạn và qua 3 đoạn hồi ức của Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Văn Thiện và Vũ Đình Hòe, chúng ta hiểu được “ngọn nguồn" của bài thơ là một "giai nhân" bên Hồ Tây từng học Nhạc viện Hà Nội, từng quyến rũ Đoàn Phú Tứ bằng tiếng đàn dương cầm rất hay, nhưng khi ốm nặng đã khước từ ông vào thăm...; tâm lý của nàng có lẽ cũng như một cung phi xưa, khi gần mất, đã chối từ không tiếp quân vương, vì không muốn để lại trong con mắt quân vương hình ảnh tàn tạ của mình.

Một khúc quanh không "sáng tỏ" trong cuộc đời Đoàn Phú Tứ - việc ông "vào thành" (còn gọi là "dinh tê") năm 1951 - lâu nay ít người nhắc đến có lẽ vì sự "tế nhị" nào đó, vì không muốn khơi lại một vết thương đã thành sẹo trong lòng ông và cũng có thể vì đây là một vấn đề không dễ lý giải. Dù vậy, chính vì "vấn đề" này mà cuộc đời ông đã gặp không ít khó khăn, đến mức, như nhà văn Nguyễn Bùi Vợi kể lại, vào năm 1964, ông thường phải ra chợ Hàng Da nhặt vỏ chuối về giúp con nuôi lợn (cũng may là trong một lần “kiếm sống" như thế, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận ra ông, mời ông về nhà ăn cơm, rồi gợi ý cho ông và nhà xuất bản khai thác khả năng tiếng Pháp của ông để dịch các tác phẩm văn học); và một nhà văn kỳ cựu như ông, từng tham dự Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957, nhưng đến năm 1985, khi đã quá tuổi "cổ lai hy", ông lại được kết nạp làm hội viên dự bị của Hội! Cho đến cuối đời (ngày 20.9.1989 - chỉ sau khi người bạn đời của ông mất chưa được 100 ngày!) phải nhờ đến cái "mẹo" nói dối của nhà văn Phùng Quán (Phùng Quán đã viết thư gửi Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo "bịa" rằng Đoàn Phú Tứ đã ủy thác cho ông lên Quốc hội xin một cỗ áo quan và chút tiền mai táng), Đoàn Phú Tứ mới có được vòng hoa viếng của Văn phòng Quốc hội - ông nguyên là Đại biểu quốc hội khóa I, nhưng vì đã "đào nhiệm" năm 1951, nên Phùng Quán phải trổ hết tài thuyết lý, các cán bộ Văn phòng Quốc hội mới đồng ý gửi vòng hoa với dòng chữ "Kính viếng hương hồn nhà thơ”.

Nhà văn Phùng Quán trong bài viết ở cuối tập sách cũng như tác giả Văn Tâm đều không bình luận gì đến chuyện Đoàn Phú Tứ "vào thành" năm 1951, nhưng đều đã nhắc tới vụ đụng độ giữa ông và Cục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu - một kẻ đã bị tử hình năm 1950, do đã cho tổ chức một đám cưới của cấp dưới cực kỳ xa xỉ giữa lúc kháng chiến gian khổ. Đoàn Phú Tứ chẳng những không vâng lời Trần Dụ Châu làm thơ ca ngợi đám cưới đó, mà còn lên án nặng nề những kẻ vô liêm sỉ đã tổ chức tiệc tùng, xa xỉ trên mồ hôi xương máu nhân dân và bộ đội, nên đã bị Trần Dụ Châu bạt tai. Hẳn là không ai nghĩ có thể lấy sự kiện này để xóa nhòa việc Đoàn Phú Tứ "vào thành" nửa năm sau đó. Văn Tâm thì chỉ viết, sự kiện đó "hẳn có lúc đã gặm nhấm tâm trí ông... và nỗi niềm nghĩ đến càng thêm ngổn ngang". Nhưng đọc hai bài bút ký viết năm 1948, 1949 của ông trên đường cùng bộ đội kháng chiến ở Việt Bắc, chúng ta thấy rõ lòng chân thành của ông đối với cách mạng và kháng chiến. "... Con đường hành hương này là con đường chiến thắng từ phương Nam lên phương Bắc, con đường vạch theo cái hướng của lòng mình...". Đọc bài bút ký này, chúng ta không khỏi liên tưởng đến Nam Cao và Trần Đăng… Vậy mà... Thật tiếc! Không chỉ là tiếc riêng cho bản thân ông để mất một "khúc quanh” hẳn là rất đau khổ trong cuộc đời. Giá như... Nhưng lịch sử và thời gian đã qua nào có cách gì lập lại. Có điều đến nay đã có đủ bằng cớ tin cậy chứng tỏ 3 năm "vào thành" (1951 - 1954) Đoàn Phú Tứ đã giữ mình trong sạch, cả đến việc chọn bạn đời, ông cũng đã tìm đến một nữ sinh nguyên là liên lạc cho Trung đoàn thủ đô...

Vậy là với công trình của nhà nghiên cứu Văn Tâm, bài thơ "Màu thời gian" cùng tác giả của nó đã đến lúc sáng tỏ. Tôi tin là sẽ có nhiều bạn đọc tìm đến "Đoàn Phú T - con người và tác phẩm" - một cuốn sách gợi nhiều suy nghĩ.

Với bạn đọc Huế, bạn đọc Sông Hương - những người từng xem kịch Tinh Hoa hơn nửa thế kỷ trước, hoặc đã từng đọc mấy dòng tâm sự của Đoàn Phú Tứ in trong tập "Bài thơ Thôn Vĩ" (TCSH xuất bản 1987) - thì cuốn sách này hẳn còn có điều hấp dẫn riêng.

1.1996
N.K.P
(TCSH85/03-1996)

________________
(*) Đọc tập sách "Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm" của Văn Tâm- NXB Văn Học 1995.
- Các cứ liệu dẫn ra trong bài đều rút từ cuốn sách trên.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.

  • Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".

  • Qua đi, với những hoa tàn tạ
    Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
                                         Victor Hugo*

  • Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".

  • Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.

  • Y PHƯƠNG

    Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.

  • HOÀNG THỤY ANH

    Mùa hè treo rũ
    Trong cái hộp hai mươi mét vuông
    Ngổn ngang màu
    Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
    Ngày lên dây hết cỡ
                                Chật
    Dâng đầy lên ngực
    Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian

     

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    Lâu nay, đọc thơ của trẻ em, tôi thường có cảm giác, hình như các em làm thơ dưới ngọn roi giáo huấn mà người lớn thường giơ lên đe nẹt trẻ con. Cho nên khi cầm trong tay tập thơ Cái chuông vú của bé Hoàng Dạ Thi “làm” từ 3 đến 5 tuổi, tôi không khỏi ngạc nhiên.

  • NGHIÊM LƯƠNG THÀNH

    Đọc xong Những đứa con rải rác trên đường, cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ 2014), thoạt đầu tôi có cảm giác trống vắng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Anh Cao Việt Dũng hỏi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?

  • CHÂU THU HÀ

    Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.

  • DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ

    Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.

  • MAI VĂN HOAN

    "Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…

  • Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.