NGUYỄN KHẮC PHÊ
"Màu thời gian" là bài thơ nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ; đến mức các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã từng nhận định: "không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế".
Ảnh: tư liệu
Nhưng sự nghiệp Đoàn Phú Tứ không chỉ có “Màu thời gian" như giáo sư Hoàng Thiệu Khang đã viết. Đoàn Phú Tứ còn là người sáng lập ban kịch Tinh Hoa năm 1936, với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát... Ban kịch đã sống lâu nhất trong thời đó (8 năm) và đã đi diễn tận Huế, Đà Nẵng, Hội An. Có thể nói đây là đoàn kịch nói bán chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam từ 60 năm trước. Đóng góp của Đoàn Phú Tứ cho nghệ thuật sân khấu còn hơn thế. Trong cuốn "Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam" (NXB Văn hóa - 1978) hai tác giả Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý đã thừa nhận trước 1945 "về mặt sáng tác kịch bản, Vi Huyền Đắc và Đoàn Phú Tứ là những lá cờ đầu".
Vậy mà trong nhiều thập kỷ, các công trình nghiên cứu, các cuộc luận bàn về văn học nghệ thuật hầu như không nhắc đến tên tuổi Đoàn Phú Tứ; bài thơ "Màu thời gian" cũng hầu như bị lớp bụi thời gian che mờ. Chỉ vì ông là một trong 6 người chủ xướng "Xuân Thu nhã tập" mà tập sách này từng bị lên án là “mang nội dung bí hiểm... rơi vào hố sâu của nghệ thuật tư sản bế tắc...". Hơn nữa, cuộc đời ông có một khúc quanh "không sáng tỏ" - ông đã bỏ kháng chiến, "vào thành" năm 1951.
Cho đến những năm gần đây, trên tinh thần đổi mới văn học nghệ thuật, sự nghiệp của nhà văn Đoàn Phú Tứ từng bước được đánh giá lại một cách công bằng. Và lần này, với công trình "Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm" dầy gần 700 trang, nhà nghiên cứu Văn Tâm đã dựng lại một cách đầy đủ và sinh động cuộc đời Đoàn Phú Tứ với tất cả những bước thăng trầm, những trăn trở đến đau đớn trên con đường tìm đến cái Đẹp của Nghệ thuật và cái Đạo làm Người. Hầu hết tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Phú Tứ trừ các tác phẩm dịch đã được tập hợp ở đây, bài thơ "Màu thời gian", 8 vở kịch, 3 tiểu luận đăng trong "Xuân Thu nhã tập" và báo "Thanh Nghị", 2 bút ký và 6 tiểu luận về sân khấu viết sau Cách Mạng tháng Tám. Tác phẩm dịch của ông gồm trên 10 cuốn (với bút danh Tuấn Đô) đều là những tác phẩm lớn của thế giới và do NXB Văn Học xuất bản như các tiểu thuyết Đỏ và đen, Păngtagruyen, các vở kịch của Môlie, Sếchxpia, Ipsen, A. đơ Muyxê, Bômacse... Với các công trình dịch thuật này, ông đã được tặng thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam (1983 - 1984).
Tác giả Văn Tâm đã tỏ ra rất công phu trong việc sưu tập tài liệu, tìm gặp các nhân chứng, nên đọc tập sách, chúng ta không chỉ hiểu rõ về cuộc đời một con người mà còn như được gặp gỡ một thế hệ, được sống lại một thời văn nghệ "tiền chiến". Để lại được đánh giá một cách công bằng và toàn diện về Đoàn Phú Tứ, bản thân tác giả đã rất bình tĩnh và "công bằng" trong khi trích dẫn các cứ liệu và bình luận. Như về "Xuân Thu nhã tập", tác giả đã không ngại dẫn ra 6 ý kiến từ trong Nam ngoài Bắc, cả trước và sau Cách Mạng tháng Tám từng lên án tập sách này là “duy tâm", “bế tắc", "thần bí", “tối tăm"... Nhưng rồi chỉ riêng việc NXB Văn Học cho tái bản "Xuân Thu nhã tập" (1991), trong đó ở đoạn cuối có mấy dòng hồi ức của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát "người trong cuộc": "...nếu không có một cái nhóm văn, thơ, kịch, nhạc, họa ngày ấy, thì chưa chắc tôi đã bền bỉ đi vào nhạc dân tộc... Qua các tư duy nghệ thuật và các hoạt động của nhóm Xuân Thu nhã tập, tôi đã học được rất nhiều điều", chúng ta đã có thể tin nhóm văn chương 6 anh em ấy là "những người tuổi còn rất trẻ, những người thực sự có tâm, có tài, mong muốn được góp sức cho đời" như nhà thơ Nguyễn Bao đã viết...
Bài thơ "Màu thời gian" cũng đã được làm sáng tỏ như thế. Ngoài nhận định của hai tác giả "Thi nhân Việt Nam", Văn Tâm còn cho chúng ta biết cả ý kiến của vị tướng văn võ kiêm toàn Nguyễn Sơn. Ông thú nhận "không hiểu nổi" nhưng "cứ nhớ nhớ, nó thanh thoát, nó lâng lâng, như khi nhìn áng mây trôi, khi ngắm dòng nước chảy... nó lung linh như một khúc nhạc thiều..., nó chập chờn như một bóng Liêu Trai!". Thực ra, hồi đó vị tướng chỉ không hiểu ý nghĩa cụ thể và "sự tích" dẫn tới bài thơ, còn bây giờ, qua lời giải trình của Đoàn Phú Tứ với một người bạn và qua 3 đoạn hồi ức của Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Văn Thiện và Vũ Đình Hòe, chúng ta hiểu được “ngọn nguồn" của bài thơ là một "giai nhân" bên Hồ Tây từng học Nhạc viện Hà Nội, từng quyến rũ Đoàn Phú Tứ bằng tiếng đàn dương cầm rất hay, nhưng khi ốm nặng đã khước từ ông vào thăm...; tâm lý của nàng có lẽ cũng như một cung phi xưa, khi gần mất, đã chối từ không tiếp quân vương, vì không muốn để lại trong con mắt quân vương hình ảnh tàn tạ của mình.
Một khúc quanh không "sáng tỏ" trong cuộc đời Đoàn Phú Tứ - việc ông "vào thành" (còn gọi là "dinh tê") năm 1951 - lâu nay ít người nhắc đến có lẽ vì sự "tế nhị" nào đó, vì không muốn khơi lại một vết thương đã thành sẹo trong lòng ông và cũng có thể vì đây là một vấn đề không dễ lý giải. Dù vậy, chính vì "vấn đề" này mà cuộc đời ông đã gặp không ít khó khăn, đến mức, như nhà văn Nguyễn Bùi Vợi kể lại, vào năm 1964, ông thường phải ra chợ Hàng Da nhặt vỏ chuối về giúp con nuôi lợn (cũng may là trong một lần “kiếm sống" như thế, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận ra ông, mời ông về nhà ăn cơm, rồi gợi ý cho ông và nhà xuất bản khai thác khả năng tiếng Pháp của ông để dịch các tác phẩm văn học); và một nhà văn kỳ cựu như ông, từng tham dự Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957, nhưng đến năm 1985, khi đã quá tuổi "cổ lai hy", ông lại được kết nạp làm hội viên dự bị của Hội! Cho đến cuối đời (ngày 20.9.1989 - chỉ sau khi người bạn đời của ông mất chưa được 100 ngày!) phải nhờ đến cái "mẹo" nói dối của nhà văn Phùng Quán (Phùng Quán đã viết thư gửi Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo "bịa" rằng Đoàn Phú Tứ đã ủy thác cho ông lên Quốc hội xin một cỗ áo quan và chút tiền mai táng), Đoàn Phú Tứ mới có được vòng hoa viếng của Văn phòng Quốc hội - ông nguyên là Đại biểu quốc hội khóa I, nhưng vì đã "đào nhiệm" năm 1951, nên Phùng Quán phải trổ hết tài thuyết lý, các cán bộ Văn phòng Quốc hội mới đồng ý gửi vòng hoa với dòng chữ "Kính viếng hương hồn nhà thơ”.
Nhà văn Phùng Quán trong bài viết ở cuối tập sách cũng như tác giả Văn Tâm đều không bình luận gì đến chuyện Đoàn Phú Tứ "vào thành" năm 1951, nhưng đều đã nhắc tới vụ đụng độ giữa ông và Cục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu - một kẻ đã bị tử hình năm 1950, do đã cho tổ chức một đám cưới của cấp dưới cực kỳ xa xỉ giữa lúc kháng chiến gian khổ. Đoàn Phú Tứ chẳng những không vâng lời Trần Dụ Châu làm thơ ca ngợi đám cưới đó, mà còn lên án nặng nề những kẻ vô liêm sỉ đã tổ chức tiệc tùng, xa xỉ trên mồ hôi xương máu nhân dân và bộ đội, nên đã bị Trần Dụ Châu bạt tai. Hẳn là không ai nghĩ có thể lấy sự kiện này để xóa nhòa việc Đoàn Phú Tứ "vào thành" nửa năm sau đó. Văn Tâm thì chỉ viết, sự kiện đó "hẳn có lúc đã gặm nhấm tâm trí ông... và nỗi niềm nghĩ đến càng thêm ngổn ngang". Nhưng đọc hai bài bút ký viết năm 1948, 1949 của ông trên đường cùng bộ đội kháng chiến ở Việt Bắc, chúng ta thấy rõ lòng chân thành của ông đối với cách mạng và kháng chiến. "... Con đường hành hương này là con đường chiến thắng từ phương Nam lên phương Bắc, con đường vạch theo cái hướng của lòng mình...". Đọc bài bút ký này, chúng ta không khỏi liên tưởng đến Nam Cao và Trần Đăng… Vậy mà... Thật tiếc! Không chỉ là tiếc riêng cho bản thân ông để mất một "khúc quanh” hẳn là rất đau khổ trong cuộc đời. Giá như... Nhưng lịch sử và thời gian đã qua nào có cách gì lập lại. Có điều đến nay đã có đủ bằng cớ tin cậy chứng tỏ 3 năm "vào thành" (1951 - 1954) Đoàn Phú Tứ đã giữ mình trong sạch, cả đến việc chọn bạn đời, ông cũng đã tìm đến một nữ sinh nguyên là liên lạc cho Trung đoàn thủ đô...
Vậy là với công trình của nhà nghiên cứu Văn Tâm, bài thơ "Màu thời gian" cùng tác giả của nó đã đến lúc sáng tỏ. Tôi tin là sẽ có nhiều bạn đọc tìm đến "Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm" - một cuốn sách gợi nhiều suy nghĩ.
Với bạn đọc Huế, bạn đọc Sông Hương - những người từng xem kịch Tinh Hoa hơn nửa thế kỷ trước, hoặc đã từng đọc mấy dòng tâm sự của Đoàn Phú Tứ in trong tập "Bài thơ Thôn Vĩ" (TCSH xuất bản 1987) - thì cuốn sách này hẳn còn có điều hấp dẫn riêng.
1.1996
N.K.P
(TCSH85/03-1996)
________________
(*) Đọc tập sách "Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm" của Văn Tâm- NXB Văn Học 1995.
- Các cứ liệu dẫn ra trong bài đều rút từ cuốn sách trên.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.
ĐÔNG HÀ
Tôi yêu thơ Nguyễn Trọng Tạo từ những năm còn là sinh viên. Tuổi trẻ nhiều háo hức, về tình yêu, về non xanh và tơ nõn. Nhưng khi bắt gặp những câu thơ chảy ngược trong tập Đồng dao cho người lớn, tôi lại choáng váng.
NGÔ MINH
Có một ngày nhạt miệng, thèm đi. Đi mãi mới hay phố cũng thiếu người. Có một ngày nằm dài nghe hát. Rồi ngủ quên trong nỗi buồn nhớ mông lung.
NGỌC THẢO NGUYÊN
Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)
ĐỖ LAI THÚY
Duy nhất chỉ thơ mới đứng cùng bình diện với triết học và suy tư triết học
Heidegger
Con người, sống trên đời, như một thi sĩ
Heidegger
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ tình, tình yêu là kẻ chiến thắng sau cùng. Chứ không phải lý trí, đạo đức, chính trị hay lịch sử. Bao giờ và ở đâu cũng thế.
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại
PHAN ĐÌNH DŨNG
Từ hai cuốn sách: Những người thân trong gia đình của Bác Hồ, và Bác Hồ gặp chị và anh ruột; soi vào những bài thơ của Bác, chúng ta có dịp nghiền ngẫm thêm về những tình cảm riêng/chung của Người.
NGUYỄN XUÂN HÒA
Thảo Am Thi Tập của Nguyễn Khoa Vy không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật.
LÊ KIM PHƯỢNG
Với thi sĩ Cao Quảng Văn, thơ là cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh và nếu văn chương có đích, thì thơ là tuyệt đích của tâm hồn. Ở chốn đó, sáng tạo ra đời. Vì vậy, thưởng thức thơ không thể không bằng cảm xúc từ trái tim của người đọc: “Thơ là tiếng nói từ trái tim đập vào trái tim”.
LTS: Nhà thơ Ngô Minh, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1949; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, cộng tác viên thân thiết của Sông Hương. Sau cơn tai biến nặng từ trưa 26 tháng 11 năm 2018, nhà thơ đã từ trần tại nhà riêng vào lúc 23 giờ 12 phút ngày 3 tháng 12 năm 2018. Nhà thơ được an táng tại Khu nghĩa trang phường Hương Long, thành phố Huế (sau lưng chùa Thiên Mụ).
Sông Hương thành kính chia buồn cùng gia quyến và bạn đọc, xin đăng bài viết dưới đây của nhà thơ Đông Hà, như là nén nhang tưởng nhớ, vĩnh biệt một người thơ…
Ban Biên tập
HỒ THẾ HÀ
Hoàng Diệp là thơ nổi tiếng với thi tập Xác thu (Nxb. Nam Kỳ, Hà Nội, 1937) trước khi trở thành nhà phê bình, nghiên cứu văn học.
PHAN VĂN NAM
Sau các tập thơ Cùng đi qua mùa hạ (Nxb. Văn nghệ, 2005), Phía bên kia cây cầu (Nxb. Phụ nữ, 2007) và Ngày linh hương nở sáng (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) được trao nhiều giải thưởng văn chương uy tín, tác giả Đinh Thị Như Thúy tiếp tục ra mắt tập thơ mới Trong những lời yêu thương (Nxb. Hội Nhà văn, 12/2017).
VĂN THÀNH LÊ
1.
Có thể nói Trần Đăng Khoa là trường hợp lạ của văn đàn Việt. Giữa thời đại cả nước lo ra đồng chạy ăn và ra trận đánh giặc, cuối những năm 1960 đầu những năm 1970, cậu bé Khoa cùng những cô bé/cậu bé 9 - 10 tuổi khác như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Trần Hồng Kiên… “đã đi lạc” vào thơ.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.
ĐỖ LAI THÚY
Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp.
SƠN CA
Mất mát, tận cùng của mất mát. Cô đơn, tận cùng của cô đơn. Thực tại “vặn xoắn con người đến mức cảm giác không còn hình hài”.
NGUYỄN THANH TÂM
…đi về đâu cũng là thế…
GIÁNG VÂN
LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.