VÕ QUÊ
Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.
Nay qua mạng xã hội, được biết tác phẩm văn xuôi đầu tay mà ông gọi là ngẫu văn “Hai phía chân dung” (Nxb. Nghệ An, 2021) ra mắt bạn đọc, chúng tôi vội tìm sách qua anh Nguyễn Trọng Quế, người bạn đồng môn của nhà thơ với tấm lòng mến mộ.
Mến mộ là phải vì chỉ với trang bìa gấp của “Hai phía chân dung” đã thấy hiện ra dòng tiểu sử Phó Giáo sư, Tiến sĩ toán học Lê Quốc Hán là Nhà giáo Ưu tú, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với các tác phẩm thơ: “Lời khấn nguyện”, “Biển vô cùng”, “Mạc khải”, “Bất biến”, “May”; Bình thơ: “Thơ trong ký ức”, “Giao cảm thơ”; Văn xuôi: “Hai phía chân dung”. Từ những tác phẩm văn học ấy, ông đã nhận 6 giải thưởng văn học có giá trị về thơ, bình thơ, văn xuôi.
Đúng với tinh thần ngẫu văn, 69 bài viết trong cuốn sách dày 356 trang đã có sức hấp dẫn người đọc. Gia quyến, thân thế, sự nghiệp ông phong phú, đa dạng quá. Hình ảnh người cha: “Cha ta, một tín đồ nhiệt thành của tôn giáo thi ca. Người sinh ra bên bến Tam Soa, nơi hai con sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu hợp lưu với sông Cả thành Lam Giang rồi đổ ra biển cả. Chẳng biết có phải vì tình đồng hương hay không mà ngày nào Người cũng đọc thơ của chàng thi sĩ họ Cù cho ta nghe. Người thổi vào hồn ta nỗi sầu mang mang thiên cổ” (Điều bí ẩn thứ ba), hình ảnh người mẹ (Người mẹ thứ hai), người thầy (Vầng trăng thơ dại), hình ảnh người chị (Chị tôi), người bạn (Người thi vào đại học điểm mười văn)… qua bút pháp tài hoa của ông đã khơi gợi nhiều hồi ức đẹp, nhiều kỷ niệm quý báu vui, buồn, thương cảm cùng những con người nhân ái, cao thượng, mẫn tiệp, tài năng, trung hậu đã từng gắn kết với cuộc đời ông qua thời bình, thời chiến trên mảnh đất quê hương yêu dấu. Khi viết về họ, những mạch nguồn tình cảm thiêng liêng, tâm huyết trong ông được thể hiện khúc chiết, chân thành, chứng tỏ ông có một tâm hồn lớn, luôn nâng niu, gìn giữ những giá trị văn hóa, tinh thần từng đồng hành với nhịp đời ông.
Đi và viết là một mảng đề tài đặc sắc trong “Hai phía chân dung”. Bên cạnh những trang văn ngẫu hứng, rung cảm, đầy ắp suối nguồn thương yêu dành cho quê hương tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi học tập, trưởng thành: “Tôi chôn rau cắt rốn ở Kỳ Anh, vùng đất phên dậu từ thời Lý - Trần - Lê là đại bản doanh của Chúa Trịnh thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, và trung tâm của chiếc đòn gánh miền Trung gánh hai đầu đất nước mấy trăm năm sau này.
Một người bạn vốn tính lãng mạn đặt cho Kỳ Anh quê tôi cái tên mỹ miều “Thung lũng nàng tiên”. Anh có cái lý của mình, vùng đất này bốn phía bao bọc bởi núi liền núi. Phía Bắc núi Voi Phục, núi Xuyên Cầm dăng ngang. Phía Nam Hoành Sơn trải dài, tạo thành biên giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Phía tây dãy Giăng Màn - một khúc Trường Sơn - bốn mùa mây trắng, mây đen bao phủ. Phía đông núi Cao Vọng, núi Bàn Độ cao vút chọc trời với bao sự tích huyền thoại” (Thung lũng nàng tiên), ông Lê Quốc Hán đã rất tinh tế, uyên bác khi tâm huyết viết về những nơi chốn từng qua. Phải chăng từ những trải nghiệm sinh động của thực tiễn cuộc sống đã giúp ông có những tầm nhìn chuẩn xác, những nhận định khách quan nhưng vô cùng tình cảm để mỗi địa danh ông nhắc tới đều sống động, hiện hình các sắc thái, sự kiện, cảnh quan thiên nhiên, của con người, tạo hiệu ứng cho độc giả, khiến họ muốn được tìm về nơi ông đã từng đi và viết. Điều này có thể tìm thấy qua các ngẫu văn “Đất nước đẹp dáng rồng bay”, “Một thoáng Thiên Cầm”, “Về quê Bà Chúa thơ Nôm”, “Chạm ngõ miền Tây”, “Một góc Thành Vinh”, “Ấn tượng Cửu Long Giang”, “Ký sự Đồng Nai”…
Tình yêu dành gởi gắm vào thảo hoa, cây lá trong nhà thơ Lê Quốc Hán cũng bàng bạc, mênh mang cùng cung bậc lãng mạn, trữ tình. Ngẫu văn “Đất nước ngàn hoa” đã khái quát về non sông gấm vóc Việt Nam mùa nào hoa nấy đẹp đẽ, ngập tràn hương sắc. Chăm chút, nâng niu từng con chữ với sự trân trọng thiên nhiên vô hạn, nhà thơ Lê Quốc Hán đã giúp người đọc thích thú với các ngẫu văn “Hoa và người”, “Muỗng và xoài”, “Huyền thoại sen”, “Sự tích cây bạch đàn”… “Hoa sen được xem là cao quý vì dù sống giữa vũng nước tù đọng và bẩn đục, bông sen vẫn nguyên vẹn trắng trong thanh khiết. Người Việt Nam và Nhật Bản xem hoa sen là biểu tượng, là hình ảnh của những người dân thường sống giữa xã hội đầy đê tiện vẫn giữ được tâm hồn thanh sạch. Nó khác với các loài hoa khác muốn giữ được mình phải lui về nơi hoang vắng như lau hay ẩn cư như cúc. Cao quý như vậy, hoa sen thường được dâng lên bàn thờ gia tiên ngày đầu tháng hay được dâng lên bàn thờ Phật mỗi ngày. Hình ảnh hoa sen được trang trí trên các họa tiết nơi đình chùa, miếu mạo thiêng liêng…” (Ký ức sen).
Vốn đã thành công trên lĩnh vực bình thơ, nhà thơ Lê Quốc Hán đã dẫn dắt người đọc vào những ngẫu văn đẹp, hào hoa trong Xuân không mùa với thi sĩ Xuân Diệu: “Hơn nửa thế kỷ trôi qua, hình ảnh Chàng Xuân lên xe rồi còn đưa tay vẫy vẫy, như muốn níu mùa xuân trở lại”; cuốn hút người đọc vào cõi thơ của Huy Cận (Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm), của Hàn Mặc Tử (Hành hương theo dấu chân Hàn Mặc Tử), của Nguyễn Bính (Hậu tương tư), của Trinh Đường, Thái Doãn Hiếu (Người tìm trầm).
Từ tác phẩm “Hai phía chân dung” của nhà thơ Lê Quốc Hán, chúng tôi càng hiểu và tôn quý nhiều hơn miền đất Hà Tĩnh, Nghệ An, nơi đã xuất hiện nhiều danh nhân trên nhiều lĩnh vực, trong đó ông Lê Quốc Hán đã sống, đã yêu rất da diết, thiết tha quê nhà đất và người, đã cống hiến hết mình vì sự nghiệp toán học, văn chương; xứng đáng với tình cảm mà bạn đọc trong ngoài nước hướng về ông.
Chúng tôi đồng cảm, đồng tình sâu sắc với nhận xét của nhà thơ Trần Nam Phong về tác giả “Hai phía chân dung”: “Nhà thơ Lê Quốc Hán nói về đạo và đời, lịch sử và thi ca với một kiến thức uyên thâm, phong thái dung dị và có một cái gì đó nhẹ hẫng như không.
Vâng, tôi hiểu để đạt được cảnh giới này, nhà thơ đã đi qua một chặng dài trên hành trình sống, trải nghiệm và viết, nối cái hữu hạn kiếp người với vô biên trời đất và vũ trụ tâm linh.”
Huế 19/5/2021
V.Q
(TCSH389/07-2021)
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.