NGUYỄN THÀNH NHÂN
Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.”
Ảnh: internet
Rất nhẹ nhàng, rất khẽ khàng, và không hề chủ tâm áp đặt, với câu văn mở đầu Chương 1, Hoàng Mai đã êm ái mở ra một cõi mơ. Và bất giác, những người đọc chúng ta cũng chìm vào một nơi chốn mơ màng, trôi theo những hình ảnh, những tư duy, xúc cảm chập chờn, hư ảo.
Kể từ câu văn đầu tiên đó, những từ “ngủ mơ”, “giấc mơ”, “giấc chiêm bao”, “cơn mộng ảo”… cứ lặp đi lặp lại, ướt đẫm từng chương, từ đầu tới cuối tác phẩm. Những giấc mơ với mọi sắc màu, ảnh tượng, có thật và không có thật, đan bện vào cảm xúc nhân vật, đồng vọng những tiếng cười, tiếng khóc, tiếng nức nở âm thầm…
Và khi ta khép sách lại, dường như âm vang của những giấc mơ vẫn còn nhoi nhói.
Có lẽ ít có tác giả trẻ nào mượn những giấc mơ để chuyển tải một câu chuyện vốn chạm vào một loạt vấn đề thuộc loại gay go và sâu sắc hàng đầu của tuổi trẻ đương thời: mơ ước, thất vọng, tuyệt vọng, cô đơn, sự phù du của cuộc đời và tình yêu, sự rạn nứt lặng lẽ của gia đình, tình yêu (khác giới và đồng giới), và những nỗi đau thầm kín, vân vân. Đặc biệt là những nỗi đau thầm kín; của những cô gái bị xâm hại tình dục khi còn thơ ấu. Tác giả không trực tiếp lên án những kẻ phi nhân có hành vi tội lỗi đó, nhưng còn lời lên án nào nghiêm khắc cho bằng việc mô tả “cực kỳ hiện thực” những nỗi đau, những ám ảnh kéo dài của các nạn nhân.
Tôi xin không đi sâu vào phân tích những chủ đề nói trên, chỉ nêu ra một số trích dẫn “nặng ký” nhất, để độc giả tùy nghi cảm nhận và đánh giá. Những đoạn văn này tự thân chúng đã nói lên rất nhiều điều:
NỖI CÔ ĐƠN:
“Không phải chỉ Chi đâu, không phải chỉ tôi đâu, mới là những kẻ lạc loài… Dường như bất kỳ ai trên thế giới cũng có lúc là một đứa trẻ tội nghiệp nhất với câu chuyện đáng thương của riêng mình. Tất cả chúng ta đều cô đơn. Làm gì có một ai không mang trong mình một, một vài vết thương chứ? Và những đứa trẻ của một gia đình không toàn vẹn lại tiếp tục xây nên một gia đình không toàn vẹn khác.” (Trang 231).
Hay:
“Rồi càng lớn, em càng cảm giác rằng em không được giống với tất cả mọi người. Em không thể lớn giống như họ. Có một ngày em nghĩ rằng mình phải thực tế, phải trưởng thành mau thôi, thì bỗng chốc em nhận ra em không giống với chính mình nữa. Cuộc sống của em thậm chí còn tồi tệ hơn khi lột bỏ những mơ mộng điên rồ, niềm tin ảo tưởng. Tận sâu trong trái tim không ngừng mâu thuẫn, dằn xé. Không biết mình là ai, cứ kẹt lại mãi, ở một nơi chốn lưng chừng.” (Trang 243 - 244).
SỰ PHÙ DU CỦA CUỘC ĐỜI VÀ TÌNH YÊU
“Khi đợt pháo hoa đắm say cuối cùng tắt đi, là mọi giấc mơ cũng sẽ biến mất... Đó là thông lệ, báo hiệu sự kết thúc của Lễ Hội Phù Vân ở quê hương tôi. Và khi tôi nhìn quanh, mọi thứ bỗng trở nên hoang mang kỳ lạ. Nụ cười vẫn còn hồng trên môi mọi người, nhưng thoáng chốc những hạnh phúc đã kỳ vọng trở nên gượng gạo, như pháo hoa đã in trên nền trời, có gì đó vừa mới chết, vừa mới bợt phai đi.” (Trang 53).
“Chẳng tùy thuộc vào chuyện ta muốn hay không, tình cảm tự nó có quy luật của nó. Ký ức mà vẫn ngỡ mãi sống động trong em sẽ từ từ tan biến đi như tuyết tan dần trên những nhánh lá cây... Thực tế là vậy, rồi em sẽ quên tôi rất nhanh, và đó là cách mọi người chọn để lớn lên…” (Trang 135).
GIA ĐÌNH RẠN NỨT TRONG LẶNG LẼ
“Mỗi lần ba về là hai người cãi nhau suốt, ném mọi thứ vào nhau, những lời độc ác nhất... Em ghét người lớn, thực sự ghét họ, ban đầu em sợ lắm, còn không ngủ được. Nhưng về sau em nghĩ, tại sao họ không chia tay đi, chia tay cho rồi đi…” (Trang 77).
Hay:
“Tôi muốn hỏi thêm, đơn giản là hai người đã ly hôn chưa, ly hôn từ lúc nào, tại sao… tại sao. Và hàng vạn câu hỏi tại sao, nhưng chỉ thế thôi, rốt cuộc [tôi] đã im lặng. Cũng đã chẳng cần thiết nữa. Có những vết thương mà không ai công nhận, bởi nó có vẻ ngoài trông quá đỗi bình thường. Người ta lảng tránh nó đi mà thậm chí vẫn tin rằng họ làm đúng. Những người lớn ấy vẫn không bao giờ chịu nói sự thật, và tất cả mọi người trong gia đình chúng tôi vẫn chưa bao giờ có dịp ngồi lại cùng nhau để nói cho hết những hiểu lầm, khúc mắc.” (Trang 207).
Hay:
“ ‘Gia đình’ chính là chủ đề mà hai đứa cảm thấy giống nhau, như thể những vết thương luôn có cách bắt nhịp cùng đồng bọn của nó. Chi cũng như tôi, có một gia đình phân mảnh. Như rất nhiều đứa trong bọn, tôi tin rằng một gia đình toàn vẹn trong thế hệ này là hết sức bất thường. Mà chắc thế hệ nào cũng thế thôi.” (Trang 230).
TÌNH YÊU ĐỒNG GIỚI NỮ
“…còn tôi bắt đầu nói như mê. ‘Tình yêu của em, tình yêu của mọi người… kỳ thực tình yêu là gì chứ? Tại sao những điều em cảm nhận thấy đều thật xa khác với hầu hết mọi người? Em không biết nơi đâu là sự thật nữa, liệu có thể tin vào thứ gì đây? Có gì không đúng đắn khi em yêu một người con gái…” (Trang 139).
NHỮNG NỖI ĐAU THẦM KÍN
“Ông ấy đã hỏi tôi có muốn học giỏi không, có muốn tốt đẹp không. Tôi nói rằng tôi có và đi theo ông ấy. Tôi để yên khi bàn tay ông ấy luồn trong chiếc quần lót của tôi. Trong tranh tối tranh sáng, những ngón tay mũm mĩm khớp tay nổi rõ và rất bẩn. Tôi đông cứng lại, những cảm giác lần đầu tôi nhận thấy. Tôi không hiểu rõ đó là chuyện gì. Đứng yên tại chỗ, không thể thét lên. Rồi tôi vùng người chạy thật xa với một niềm tủi hổ, đau đớn cứ thấm mãi, dâng lên theo từng bước chân… Và dù tôi cố gắng miêu tả như thế nào, nó cũng cứ hài hước làm sao ấy. Nó thiếu mất một đoạn quan trọng nhất nên không bao giờ biết chắc sự thật là thế nào. Không sao nhớ được, cũng không chắc rằng đã bỏ sót điều gì không. Không biết rằng đó ký ức hay một sự tưởng tượng. Nếu là tưởng tượng - rất có thể là tưởng tượng - thì tại sao nó lại quá đau đớn đến như thế? Duy một điều tôi chắc nỗi đau ấy luôn trực diện ở đây, ngay trong tim tôi, trong đáy sâu tâm khảm của chính tôi, đợi chờ để đốn ngã tôi, bất kỳ lúc nào…” (Trang78).
Hay:
“Hơi thở ấy vẫn còn mãi bên tai tôi khi nhắm mắt, từng động chạm trên da thịt vẫn làm đau tôi như vừa mới hôm qua. Toàn bộ cơ thể này chẳng chứa đựng gì hơn, ngoài những vết thương đang mưng mủ, vẫn còn mưng mủ…
…Như thể một trò đùa, chị bị tổn thương và dày vò hết ngày này qua ngày khác. Tôi như vẫn còn trông thấy những hình ảnh ấy, như những cuộn phim chậm rãi trôi qua. Tôi nhìn thấy máu, nước mắt của chị, và những vết dao vạch trên cánh tay, trên cổ tay, khi cơ thể lớn dần lên.” (Trang 178).
*
Tác giả thuật lại câu chuyện qua lời của nhân vật “Tôi” theo cách kể chuyện thông thường, nhưng thi thoảng cũng điểm đôi chút thủ pháp “dòng ý thức”, và đặc biệt, ở Chương cuối, cô lại khai thác thủ pháp hiện thực huyền ảo, với nhân vật “Người Thu nhặt Ký ức”. Và, như đã nói, câu chuyện dù rất thật, lại cũng “rất mơ”. Hiện thực đời sống, qua phương tiện “những giấc mơ”, trở thành một cái gì đó hư ảo chập chờn, lung linh như bóng trăng dưới nước. Một bạn đọc duy lý có thể tìm thấy ở nơi này nơi khác đôi ba chi tiết không logic lắm. Ví dụ, Mimi, một cô gái bỏ nhà đi hoang từ năm 17 tuổi, lại khá am tường văn học, có kiến thức về những tác giả, tác phẩm thuộc loại “khó nhai” như Mrs. Dalloway (tiểu thuyết của Virginia Woolf), Salomé (kịch của Oscar Wilde) mà vào thời điểm thực tế khi tác phẩm này được viết vẫn chưa có các bản dịch tiếng Việt. Hay trường hợp nhân vật “Tôi”, một cô bé mê và đọc những tác giả khó nhai không kém, chẳng hạn Dostoiersky từ năm 12 tuổi. Dù việc lý giải đối với trường hợp này khả dĩ hơn. Nhưng bạn đọc ấy sẽ rộng lượng và sẵn lòng bỏ qua những chi tiết ấy, khi cảm nhận được rằng câu chuyện này là câu chuyện của những giấc mơ.
Trong tác phẩm này, các nhân vật dường như chỉ là những cái bóng của những con người thật. Không gian, và đôi khi, thời gian, cũng trở nên mơ hồ như một tấm kính nhòa hơi nước. Vì vậy, thật sự rất khó xác định cụ thể bút pháp của tiểu thuyết này.
Dù sao, tôi rất muốn gọi đó là thủ pháp “dòng giấc mơ” (stream of dreaming), và tưởng tượng biết đâu chừng sau này có một vài nhà phê bình, khi nhận định về Đung đưa trên những đám mây, sẽ gọi thủ pháp của tác giả bằng chính cái tên này. Nhưng thôi, công việc gọi tên thủ pháp tốt nhất nên dành cho thời gian, và những nhà phê bình có kiến thức chuyên sâu.
Chỉ có điều này là tôi dám chắc: tác giả đã lao tâm khổ tứ không ít trong quá trình xây dựng tác phẩm vì chủ đề khá rộng, đòi hỏi một mức độ tri thức khá thâm sâu, và quan trọng hơn nữa, niềm cảm thông sâu sắc. Có những câu, những đoạn cứ như rứt ruột ra mà viết, cứ như tác giả cũng chính là nhân vật, hoặc đã thật sự hóa thân thành nhân vật, trong quá trình sáng tác. Diễn biến tâm lý của nhân vật rất thật, dù mọi chuyện, như trên đã nói, cứ như những giấc mơ liên miên trôi chảy từ trang đầu tới trang cuối sách.
Trong những giấc mơ ấy có khá nhiều nhân vật với mọi tính cách con người đa dạng, đủ để hình thành một xã hội nhỏ bé, tuy nhiên cũng điển hình cho toàn xã hội trong nước hiện tại, nói rộng hơn là toàn cõi thế. Nhưng hai nhân vật được tác giả chăm chút nhất, yêu thương nhất, dụng công thể hiện nhất là hai cô gái: Mini, một nữ diễn viên điện ảnh; và “Tôi”, một cô bé mười ba tuổi khi câu chuyện bắt đầu, và một cô gái vừa tròn hai mươi tuổi vào cuối truyện.
MIMI
Nhân vật Mimi lấy từ nguyên mẫu đời thực nào, hay được hư cấu hoàn toàn, điều đó không quan trọng; nhưng chắc chắn những cô gái giống như Mimi không là số ít trong xã hội Việt Nam hiện tại.
Mẹ Mimi tái giá khi cô còn bé, và rồi ngày nọ, một sự cố bi thảm xảy ra: cô bị người cha dượng tước đoạt đời con gái vào sinh nhật thứ mười ba. Sự thật luôn trần trụi, và mọi tô vẽ đều vô ích. Sự thật bi thương này, được tác giả thể hiện một cách chân xác lạ lùng, quá đủ để người đọc cảm nhận được nỗi đau của nạn nhân, như ở mục trích dẫn “Những nỗi đau thầm kín” bên trên.
Mimi là một cô gái có cá tính phức tạp, vừa mạnh mẽ trong lý trí vừa yếu đuối trong tình cảm. Cô rời khỏi nhà, sống lang thang lưu lạc từ năm mười bảy tuổi. Tình cờ, một đạo diễn nhận ra tố chất nghệ sĩ của cô, và bồi đắp cô thành một nữ diễn viên tên tuổi. Cô thành công trong sự nghiệp, dù dửng dưng với chính sự nghiệp đó. Một ngày tình yêu đến, rồi nó lại ra đi.
Kết thúc dành cho Mimi là cái chết - một kết thúc rất buồn - nhưng có lẽ đối với cô, đó là sự giải thoát, là ân sủng cuối cùng của cuộc đời dành cho cô, một hồng nhan bạc mệnh.
“TÔI”
“Tôi” là một cô gái khác thường. “Tôi” trong Đung đưa giữa những đám mây như một con lắc cứ chao động giữa đôi bờ hư-thực.
Một bé gái mới 12 tuổi nhưng chỉ mê đọc những tác phẩm kinh điển. Rất say mê nhân vật Lâm Đại ngọc trong tiểu thuyết Hồng Lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Nhất quyết sẽ trở thành một nhà văn. Yêu một cô gái lớn tuổi hơn (Mimi).
Gia đình em là một gia đình tan vỡ từ lâu, chỉ còn hình thức. Mẹ em ngoại tình với một người đàn ông, ba em thường xuyên đi vắng. Và nếu căn nhà có cả cha lẫn mẹ, nó biến thành một bãi chiến trường. Những ẩn ức, buồn phiền, sợ hãi và cảm giác không thể hiểu, cảm giác bất lực, cảm giác chán ghét ấy, có lẽ đã biến em thành một cô bé kỳ lạ. Em bắt đầu chạy trốn thực tại, tìm nơi ẩn náu trong những trang sách, trong những giấc mơ.
Em từng bị xâm hại tình dục. Ký ức về sự cố đó là một vết thương, không rõ rệt, nhưng mãi mãi là một vết thương không kín miệng. Có phải chính vì thế mà trong em đã hình thành một tình yêu lệch lạc, nghĩa là yêu một người cùng giới tính?
Trong sinh hoạt bình thường, em luôn có cảm giác một kẻ xa lạ, một kẻ ngoài lề, lạc lối.
Còn có rất nhiều điều về “Tôi”. Em đã trưởng thành ra sao? Em có thoát khỏi cơn mê tăm tối, rối rắm đầy hoảng loạn đó, và chỉ còn những giấc mơ đẹp đẽ? Trích dẫn là một khả năng vô cùng hạn chế, vì vậy, rất mong bạn đọc tìm thấy thêm nhiều yếu tố về nhân vật này ngay trong tác phẩm.
Nhiều nhân vật khác cũng rất đáng chú ý, như Sói, Hổ, Chi, ba mẹ của “Tôi”. Tất cả tập hợp, xoay quanh hai nhân vật chính của chúng ta, đại diện và hình thành nên một phần tử trong xã hội lớn Việt Nam.
*
Nguyễn Hoàng Mai hoàn thành Đung đưa trên những đám mây năm 21 tuổi, khi còn là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Đây là bước đầu tiên trên con đường văn học cam go gian khổ, có thể sau tác phẩm này Nguyễn Hoàng Mai không viết được gì hay hơn nữa; cũng có thể đây là cột mốc để từ đó cô vươn lên những tầm cao mới.
N.T.N
(TCSH353/07-2018)
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)