“Đung đưa trên những đám mây”: Những giấc mơ vụn vỡ

14:39 24/07/2018

NGUYỄN THÀNH NHÂN

Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

Ảnh: internet

Rất nhẹ nhàng, rất khẽ khàng, và không hề chủ tâm áp đặt, với câu văn mở đầu Chương 1, Hoàng Mai đã êm ái mở ra một cõi mơ. Và bất giác, những người đọc chúng ta cũng chìm vào một nơi chốn mơ màng, trôi theo những hình ảnh, những tư duy, xúc cảm chập chờn, hư ảo.

Kể từ câu văn đầu tiên đó, những từ “ngủ mơ”, “giấc mơ”, “giấc chiêm bao”, “cơn mộng ảo”… cứ lặp đi lặp lại, ướt đẫm từng chương, từ đầu tới cuối tác phẩm. Những giấc mơ với mọi sắc màu, ảnh tượng, có thật và không có thật, đan bện vào cảm xúc nhân vật, đồng vọng những tiếng cười, tiếng khóc, tiếng nức nở âm thầm…

Và khi ta khép sách lại, dường như âm vang của những giấc mơ vẫn còn nhoi nhói.

Có lẽ ít có tác giả trẻ nào mượn những giấc mơ để chuyển tải một câu chuyện vốn chạm vào một loạt vấn đề thuộc loại gay go và sâu sắc hàng đầu của tuổi trẻ đương thời: mơ ước, thất vọng, tuyệt vọng, cô đơn, sự phù du của cuộc đời và tình yêu, sự rạn nứt lặng lẽ của gia đình, tình yêu (khác giới và đồng giới), và những nỗi đau thầm kín, vân vân. Đặc biệt là những nỗi đau thầm kín; của những cô gái bị xâm hại tình dục khi còn thơ ấu. Tác giả không trực tiếp lên án những kẻ phi nhân có hành vi tội lỗi đó, nhưng còn lời lên án nào nghiêm khắc cho bằng việc mô tả “cực kỳ hiện thực” những nỗi đau, những ám ảnh kéo dài của các nạn nhân.

Tôi xin không đi sâu vào phân tích những chủ đề nói trên, chỉ nêu ra một số trích dẫn “nặng ký” nhất, để độc giả tùy nghi cảm nhận và đánh giá. Những đoạn văn này tự thân chúng đã nói lên rất nhiều điều:

NỖI CÔ ĐƠN:

“Không phải chỉ Chi đâu, không phải chỉ tôi đâu, mới là những kẻ lạc loài… Dường như bất kỳ ai trên thế giới cũng có lúc là một đứa trẻ tội nghiệp nhất với câu chuyện đáng thương của riêng mình. Tất cả chúng ta đều cô đơn. Làm gì có một ai không mang trong mình một, một vài vết thương chứ? Và những đứa trẻ của một gia đình không toàn vẹn lại tiếp tục xây nên một gia đình không toàn vẹn khác.” (Trang 231).

Hay:

“Rồi càng lớn, em càng cảm giác rằng em không được giống với tất cả mọi người. Em không thể lớn giống như họ. Có một ngày em nghĩ rằng mình phải thực tế, phải trưởng thành mau thôi, thì bỗng chốc em nhận ra em không giống với chính mình nữa. Cuộc sống của em thậm chí còn tồi tệ hơn khi lột bỏ những mơ mộng điên rồ, niềm tin ảo tưởng. Tận sâu trong trái tim không ngừng mâu thuẫn, dằn xé. Không biết mình là ai, cứ kẹt lại mãi, ở một nơi chốn lưng chừng.” (Trang 243 - 244).

SỰ PHÙ DU CỦA CUỘC ĐỜI VÀ TÌNH YÊU

“Khi đợt pháo hoa đắm say cuối cùng tắt đi, là mọi giấc mơ cũng sẽ biến mất... Đó là thông lệ, báo hiệu sự kết thúc của Lễ Hội Phù Vân ở quê hương tôi. Và khi tôi nhìn quanh, mọi thứ bỗng trở nên hoang mang kỳ lạ. Nụ cười vẫn còn hồng trên môi mọi người, nhưng thoáng chốc những hạnh phúc đã kỳ vọng trở nên gượng gạo, như pháo hoa đã in trên nền trời, có gì đó vừa mới chết, vừa mới bợt phai đi.” (Trang 53).

“Chẳng tùy thuộc vào chuyện ta muốn hay không, tình cảm tự nó có quy luật của nó. Ký ức mà vẫn ngỡ mãi sống động trong em sẽ từ từ tan biến đi như tuyết tan dần trên những nhánh lá cây... Thực tế là vậy, rồi em sẽ quên tôi rất nhanh, và đó là cách mọi người chọn để lớn lên…” (Trang 135).

GIA ĐÌNH RẠN NỨT TRONG LẶNG LẼ

“Mỗi lần ba về là hai người cãi nhau suốt, ném mọi thứ vào nhau, những lời độc ác nhất... Em ghét người lớn, thực sự ghét họ, ban đầu em sợ lắm, còn không ngủ được. Nhưng về sau em nghĩ, tại sao họ không chia tay đi, chia tay cho rồi đi…” (Trang 77).

Hay:

“Tôi muốn hỏi thêm, đơn giản là hai người đã ly hôn chưa, ly hôn từ lúc nào, tại sao… tại sao. Và hàng vạn câu hỏi tại sao, nhưng chỉ thế thôi, rốt cuộc [tôi] đã im lặng. Cũng đã chẳng cần thiết nữa. Có những vết thương mà không ai công nhận, bởi nó có vẻ ngoài trông quá đỗi bình thường. Người ta lảng tránh nó đi mà thậm chí vẫn tin rằng họ làm đúng. Những người lớn ấy vẫn không bao giờ chịu nói sự thật, và tất cả mọi người trong gia đình chúng tôi vẫn chưa bao giờ có dịp ngồi lại cùng nhau để nói cho hết những hiểu lầm, khúc mắc.” (Trang 207).

Hay:

“ ‘Gia đình’ chính là chủ đề mà hai đứa cảm thấy giống nhau, như thể những vết thương luôn có cách bắt nhịp cùng đồng bọn của nó. Chi cũng như tôi, có một gia đình phân mảnh. Như rất nhiều đứa trong bọn, tôi tin rằng một gia đình toàn vẹn trong thế hệ này là hết sức bất thường. Mà chắc thế hệ nào cũng thế thôi.” (Trang 230).

TÌNH YÊU ĐỒNG GIỚI NỮ

“…còn tôi bắt đầu nói như mê. ‘Tình yêu của em, tình yêu của mọi người… kỳ thực tình yêu là gì chứ? Tại sao những điều em cảm nhận thấy đều thật xa khác với hầu hết mọi người? Em không biết nơi đâu là sự thật nữa, liệu có thể tin vào thứ gì đây? Có gì không đúng đắn khi em yêu một người con gái…” (Trang 139).

NHỮNG NỖI ĐAU THẦM KÍN

“Ông ấy đã hỏi tôi có muốn học giỏi không, có muốn tốt đẹp không. Tôi nói rằng tôi có và đi theo ông ấy. Tôi để yên khi bàn tay ông ấy luồn trong chiếc quần lót của tôi. Trong tranh tối tranh sáng, những ngón tay mũm mĩm khớp tay nổi rõ và rất bẩn. Tôi đông cứng lại, những cảm giác lần đầu tôi nhận thấy. Tôi không hiểu rõ đó là chuyện gì. Đứng yên tại chỗ, không thể thét lên. Rồi tôi vùng người chạy thật xa với một niềm tủi hổ, đau đớn cứ thấm mãi, dâng lên theo từng bước chân… Và dù tôi cố gắng miêu tả như thế nào, nó cũng cứ hài hước làm sao ấy. Nó thiếu mất một đoạn quan trọng nhất nên không bao giờ biết chắc sự thật là thế nào. Không sao nhớ được, cũng không chắc rằng đã bỏ sót điều gì không. Không biết rằng đó ký ức hay một sự tưởng tượng. Nếu là tưởng tượng - rất có thể là tưởng tượng - thì tại sao nó lại quá đau đớn đến như thế? Duy một điều tôi chắc nỗi đau ấy luôn trực diện ở đây, ngay trong tim tôi, trong đáy sâu tâm khảm của chính tôi, đợi chờ để đốn ngã tôi, bất kỳ lúc nào…” (Trang78).

Hay:

“Hơi thở ấy vẫn còn mãi bên tai tôi khi nhắm mắt, từng động chạm trên da thịt vẫn làm đau tôi như vừa mới hôm qua. Toàn bộ cơ thể này chẳng chứa đựng gì hơn, ngoài những vết thương đang mưng mủ, vẫn còn mưng mủ…

…Như thể một trò đùa, chị bị tổn thương và dày vò hết ngày này qua ngày khác. Tôi như vẫn còn trông thấy những hình ảnh ấy, như những cuộn phim chậm rãi trôi qua. Tôi nhìn thấy máu, nước mắt của chị, và những vết dao vạch trên cánh tay, trên cổ tay, khi cơ thể lớn dần lên.”
(Trang 178).

*

Tác giả thuật lại câu chuyện qua lời của nhân vật “Tôi” theo cách kể chuyện thông thường, nhưng thi thoảng cũng điểm đôi chút thủ pháp “dòng ý thức”, và đặc biệt, ở Chương cuối, cô lại khai thác thủ pháp hiện thực huyền ảo, với nhân vật “Người Thu nhặt Ký ức”. Và, như đã nói, câu chuyện dù rất thật, lại cũng “rất mơ”. Hiện thực đời sống, qua phương tiện “những giấc mơ”, trở thành một cái gì đó hư ảo chập chờn, lung linh như bóng trăng dưới nước. Một bạn đọc duy lý có thể tìm thấy ở nơi này nơi khác đôi ba chi tiết không logic lắm. Ví dụ, Mimi, một cô gái bỏ nhà đi hoang từ năm 17 tuổi, lại khá am tường văn học, có kiến thức về những tác giả, tác phẩm thuộc loại “khó nhai” như Mrs. Dalloway (tiểu thuyết của Virginia Woolf), Salomé (kịch của Oscar Wilde) mà vào thời điểm thực tế khi tác phẩm này được viết vẫn chưa có các bản dịch tiếng Việt. Hay trường hợp nhân vật “Tôi”, một cô bé mê và đọc những tác giả khó nhai không kém, chẳng hạn Dostoiersky từ năm 12 tuổi. Dù việc lý giải đối với trường hợp này khả dĩ hơn. Nhưng bạn đọc ấy sẽ rộng lượng và sẵn lòng bỏ qua những chi tiết ấy, khi cảm nhận được rằng câu chuyện này là câu chuyện của những giấc mơ.

Trong tác phẩm này, các nhân vật dường như chỉ là những cái bóng của những con người thật. Không gian, và đôi khi, thời gian, cũng trở nên mơ hồ như một tấm kính nhòa hơi nước. Vì vậy, thật sự rất khó xác định cụ thể bút pháp của tiểu thuyết này.

Dù sao, tôi rất muốn gọi đó là thủ pháp “dòng giấc mơ” (stream of dreaming), và tưởng tượng biết đâu chừng sau này có một vài nhà phê bình, khi nhận định về Đung đưa trên những đám mây, sẽ gọi thủ pháp của tác giả bằng chính cái tên này. Nhưng thôi, công việc gọi tên thủ pháp tốt nhất nên dành cho thời gian, và những nhà phê bình có kiến thức chuyên sâu.

Chỉ có điều này là tôi dám chắc: tác giả đã lao tâm khổ tứ không ít trong quá trình xây dựng tác phẩm vì chủ đề khá rộng, đòi hỏi một mức độ tri thức khá thâm sâu, và quan trọng hơn nữa, niềm cảm thông sâu sắc. Có những câu, những đoạn cứ như rứt ruột ra mà viết, cứ như tác giả cũng chính là nhân vật, hoặc đã thật sự hóa thân thành nhân vật, trong quá trình sáng tác. Diễn biến tâm lý của nhân vật rất thật, dù mọi chuyện, như trên đã nói, cứ như những giấc mơ liên miên trôi chảy từ trang đầu tới trang cuối sách.

Trong những giấc mơ ấy có khá nhiều nhân vật với mọi tính cách con người đa dạng, đủ để hình thành một xã hội nhỏ bé, tuy nhiên cũng điển hình cho toàn xã hội trong nước hiện tại, nói rộng hơn là toàn cõi thế. Nhưng hai nhân vật được tác giả chăm chút nhất, yêu thương nhất, dụng công thể hiện nhất là hai cô gái: Mini, một nữ diễn viên điện ảnh; và “Tôi”, một cô bé mười ba tuổi khi câu chuyện bắt đầu, và một cô gái vừa tròn hai mươi tuổi vào cuối truyện.

MIMI

Nhân vật Mimi lấy từ nguyên mẫu đời thực nào, hay được hư cấu hoàn toàn, điều đó không quan trọng; nhưng chắc chắn những cô gái giống như Mimi không là số ít trong xã hội Việt Nam hiện tại.

Mẹ Mimi tái giá khi cô còn bé, và rồi ngày nọ, một sự cố bi thảm xảy ra: cô bị người cha dượng tước đoạt đời con gái vào sinh nhật thứ mười ba. Sự thật luôn trần trụi, và mọi tô vẽ đều vô ích. Sự thật bi thương này, được tác giả thể hiện một cách chân xác lạ lùng, quá đủ để người đọc cảm nhận được nỗi đau của nạn nhân, như ở mục trích dẫn “Những nỗi đau thầm kín” bên trên.

Mimi là một cô gái có cá tính phức tạp, vừa mạnh mẽ trong lý trí vừa yếu đuối trong tình cảm. Cô rời khỏi nhà, sống lang thang lưu lạc từ năm mười bảy tuổi. Tình cờ, một đạo diễn nhận ra tố chất nghệ sĩ của cô, và bồi đắp cô thành một nữ diễn viên tên tuổi. Cô thành công trong sự nghiệp, dù dửng dưng với chính sự nghiệp đó. Một ngày tình yêu đến, rồi nó lại ra đi.

Kết thúc dành cho Mimi là cái chết - một kết thúc rất buồn - nhưng có lẽ đối với cô, đó là sự giải thoát, là ân sủng cuối cùng của cuộc đời dành cho cô, một hồng nhan bạc mệnh.

“TÔI”

“Tôi” là một cô gái khác thường. “Tôi” trong Đung đưa giữa những đám mây như một con lắc cứ chao động giữa đôi bờ hư-thực.

Một bé gái mới 12 tuổi nhưng chỉ mê đọc những tác phẩm kinh điển. Rất say mê nhân vật Lâm Đại ngọc trong tiểu thuyết Hồng Lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Nhất quyết sẽ trở thành một nhà văn. Yêu một cô gái lớn tuổi hơn (Mimi).

Gia đình em là một gia đình tan vỡ từ lâu, chỉ còn hình thức. Mẹ em ngoại tình với một người đàn ông, ba em thường xuyên đi vắng. Và nếu căn nhà có cả cha lẫn mẹ, nó biến thành một bãi chiến trường. Những ẩn ức, buồn phiền, sợ hãi và cảm giác không thể hiểu, cảm giác bất lực, cảm giác chán ghét ấy, có lẽ đã biến em thành một cô bé kỳ lạ. Em bắt đầu chạy trốn thực tại, tìm nơi ẩn náu trong những trang sách, trong những giấc mơ.

Em từng bị xâm hại tình dục. Ký ức về sự cố đó là một vết thương, không rõ rệt, nhưng mãi mãi là một vết thương không kín miệng. Có phải chính vì thế mà trong em đã hình thành một tình yêu lệch lạc, nghĩa là yêu một người cùng giới tính?

Trong sinh hoạt bình thường, em luôn có cảm giác một kẻ xa lạ, một kẻ ngoài lề, lạc lối.

Còn có rất nhiều điều về “Tôi”. Em đã trưởng thành ra sao? Em có thoát khỏi cơn mê tăm tối, rối rắm đầy hoảng loạn đó, và chỉ còn những giấc mơ đẹp đẽ? Trích dẫn là một khả năng vô cùng hạn chế, vì vậy, rất mong bạn đọc tìm thấy thêm nhiều yếu tố về nhân vật này ngay trong tác phẩm.

Nhiều nhân vật khác cũng rất đáng chú ý, như Sói, Hổ, Chi, ba mẹ của “Tôi”. Tất cả tập hợp, xoay quanh hai nhân vật chính của chúng ta, đại diện và hình thành nên một phần tử trong xã hội lớn Việt Nam.

*

Nguyễn Hoàng Mai hoàn thành Đung đưa trên những đám mây năm 21 tuổi, khi còn là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Đây là bước đầu tiên trên con đường văn học cam go gian khổ, có thể sau tác phẩm này Nguyễn Hoàng Mai không viết được gì hay hơn nữa; cũng có thể đây là cột mốc để từ đó cô vươn lên những tầm cao mới.

N.T.N  
(TCSH353/07-2018)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.