Rừng Rú Chá là rừng ngập mặn nguyên sinh duy nhất còn tồn tại trên phá Tam Giang (tỉnh Thừa Thiên – Huế).
Suốt 30 năm qua vợ chồng ông Đáp gắn bó với rừng Rú Chá.
Rừng Rú Chá rộng khoảng 5ha thuộc xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách trung tâm thành phố Huế chừng 15 km. Theo dân địa phương sở dĩ gọi là “Rú Chá” vì “rú” nghĩa là “rừng”, còn “chá” là vì trong rừng toàn cây “chá”.
Ngoài vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, Rú Chá còn chứa trong lòng nó một “di nhân” có nhà nhưng 30 năm qua chỉ thích ở trong rừng và ngôi miếu Thánh Mẫu linh thiêng với nhiều câu chuyện huyền bí khiến nhiều người tò mò.
“Dị nhân” 30 năm chỉ thích ở rừng
Về thôn Thuận Hòa B, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế hỏi ông Nguyễn Ngọc Đáp ai cũng biết. Ông Đáp năm nay đã 70 tuổi, nổi tiếng bởi cái danh là “ dị nhân người rừng”.
Sở dĩ dân địa phương là gọi ông Đáp là “người rừng” vì dù đã có gia đình đầm ấm, đông con cháu nhưng do bản tính thích sống gần với thiên nhiên nên suốt 30 năm qua ông dựng lều cùng vợ sống ở rừng Rú Chá.
Túp lều của vợ chồng “dị nhân người rừng” Nguyễn Ngọc Đáp nằm xen giữa những rừng cây chá, xung quanh là chỗ nuôi gà, vịt, chim… phong cảnh cũng hữu tình gần gũi với thiên nhiên.
Theo dân địa phương thì vợ chồng “dị nhân người rừng” Nguyễn Ngọc Đáp là những người có công lớn trong việc gìn giữ, bảo vệ và phủ xanh rừng Rú Chá. Sinh sống cùng Rú Chá thành quen, hai vợ chồng ông xin xã ít đất và dựng lều tạm ở ngay tại rừng và tranh thủ nuôi tôm, tép làm kế sinh nhai và được xã đồng ý.
Ngoài thời gian nuôi tôm, vợ chồng ông Đáp tranh thủ chăm nom cho rừng Rú Chá, những cây chá, cây sú, cây đước đua nhau bén rễ ở khu rừng ngập mặn nguyên sinh duy nhất còn tồn tại ở khu đầm phá Tam Giang.
Sau này sinh con, đẻ cái dù đã có nhà ở trong làng nhưng hai vợ chồng ông Đáp vẫn không bỏ rừng Rú Chá và đến nay đã 30 năm có lẻ hai vợ chồng ông sống cuộc sống gắn liền với khu rừng ngập mặn nguyên sinh này.
Theo lời ông Đáp, không biết Rú Chá có từ khi nào, chỉ biết nó là một khu rừng nguyên sinh lâu đời, từ kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến đánh đế quốc Mỹ xâm lược, Rú Chá đã là tấm bia tự nhiên đỡ đạn cho lực lượng cách mạng khi giặc điên cuồng nhả đạn bắn phá.
“Cuộc đời tui dù nhiều khó khăn, vất vả nhưng được hòa mình vào thiên nhiên tui thấy vui rồi. Cuộc sống ở đây tuy không có điện, nước sạch nhưng mỗi sáng thức dậy được nghe tiếng chim hót là tôi thấy vui rồi”.
Nói về cuộc sống hiện tại, ông Đáp bảo rằng cái ăn cái mặc cũng đã đỡ hơn xưa, chỉ có chuyện thiếu nước sạch để uống, sinh hoạt là khổ nhất. Vợ chồng ông cũng ít khi về làng, chỉ Tết, giỗ kỵ vợ chồng ông mới về.
Ông Đáp tâm sự: “Ở đây quen rồi, vào làng ồn ào, không chịu được. Gì chứ đời lão gắn với Rú Chá này cho đến khi xanh cỏ thì thôi”.
Miếu Thánh Mẫu linh thiêng
Trong rừng Rú Chá có ngôi miếu cổ thờ bà Đức Thánh Mẫu. Theo truyền thuyết của dân làng Thuận Hòa kể lại, ngày xưa trong một trận lụt lớn, bát nhang của Đức Thánh Mẫu ở điện Hòn Chén trôi về nằm ở đây. Dân làng thấy thế, bèn lập miếu thờ.
Từ đó đến nay, dân làng vẫn tổ chức đám giỗ Đức Thánh Mẫu tại miếu vào ngày 3/3 âm lịch.
Ông Đặng Duy Bản (73 tuổi), người canh giữ miếu Thánh Mẫu cho biết, miếu Thánh Mẫu có từ rất lâu đời, ban đầu miếu chỉ có một cái cột và hai mái để đặt bàn thờ.
Thời vua Duy Tân một vị hoàng tử đi săn bắn trong khu rừng Rú Chá này, đến miếu Thánh Mẫu thấy một con chim trắng đậu phía trên miếu đã dương súng bắn.
Lạ là bắn ba phát liền con chim không chết, càng lạ hơn khi về đến hoàng cung thì vị hoàng tử lâm bệnh nặng. Biết chuyện, vua Duy Tân đích thân đến miếu khẩn lạy thì vị hoàng tử khỏi bệnh.
Năm 1902, nhà vua ký ban sắc lệnh tặng sắc bản tại miếu Thánh Mẫu trong rừng Rú Chá và cho tu bổ lại ngôi miếu, truyền cho dân làng tổ chức lễ hội, nhang khói hàng năm.
“Ai đi ngang qua miếu cũng phải cúi đầu chào, đi qua hết miếu mới được ngẩng đầu đi tiếp. Nếu không thực hiện sẽ bị ốm đau , phải soạn lễ ra miếu cúng Thánh Mẫu”, ông Nguyễn Văn Khôi, ( 69 tuổi) cho hay.
Thực hư những câu chuyện mà ông Khôi, ông Bản kể lại chưa được kiểm chứng và cũng không biết đúng sai thế nào, chỉ biết rằng bao đời qua dân làng Thuận Hòa vẫn coi miếu Thanh Mấu là nơi tôn nghiêm và rất linh thiêng và không dám xúc phạm đến sự tôn nghiêm ấy.
Cũng theo lời ông Nguyễn Văn Khôi, ngày xưa phía sau miếu thờ Đức Thánh Mẫu là đình làng Thuận Hòa, ở đây có một căn hầm bí mật của chiến sĩ cách mạng. Người dân trong làng thường mang thức ăn, nước uống ra rú nuôi cán bộ.
Theo kienthuc.net.vn
“Ngài” rùa đá được xem như một trong hai linh vật để trấn yểm vùng đất Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế), trên đầu “ngài” còn có một chữ Vương.
Huế có những sáng mờ sương, sương giăng kín những tuyến phố, bầu trời như sà xuống tận đầu người, xứ Huế vốn mộng mơ càng thêm huyền ảo.
Lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho chùa Thiền Lâm một nét đẹp khác biệt so với các cổ tự đất cố đô.
Cố đô Huế bây giờ không còn trầm mặc, phong cảnh về đêm thật quyến rũ bởi việc chiếu sáng nghệ thuật cầu Trường Tiền.
Sáng 10-3, Sở VHTT&DL tỉnh Thừa Thiên- Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới đã tổ chức lễ hội Ariêu Car_một trong những lễ hội văn hóa truyền thống lớn với sự tham gia đông đảo cộng đồng người dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy đang sinh sống ở địa bàn vùng cao huyện A Lưới .
Nhà vườn An Hiên, phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, Xuân Viên Tiểu Cung... là những nhà vườn đẹp bậc nhất xứ Huế. Hệ thống kiến trúc dân gian này là một điểm nhấn trong khám phá nét đẹp văn hóa Cố đô.
Lễ hội A riêu Car là dịp để các dân tộc hội tụ, thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.
Là món ăn có cái tên khiến nhiều người phải ngẩn ra vì nghe quá lạ, canh chột nưa chinh phục thực khách bởi hương vị đậm chất quê và cái tình của người dân Huế.
SHO - Sáng ngày 21/2 (14 Tháng Giêng năm Bính Thân), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất . Đây là năm thứ tám văn nghệ sĩ Cố đô Huế tổ chức đi viếng mộ thi nhân vào dịp Tết Nguyên tiêu.
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ "cúng bổn mạng" đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có "ông tổ" khai sinh ra loại hoa tre thì người ta "cúng bổn mạng" bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Là kinh đô xưa cổ còn được lưu giữ gần như toàn vẹn nhất cho đến bây giờ, Tết ở Huế tượng trưng cho sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Cặp rắn này chỉ xuất hiện tại chùa vào các ngày sóc vọng (các ngày 1, 15, 30 hàng tháng) và trú lại qua đêm trong hang cây da cổ thụ rồi lặng lẽ bỏ đi. Thấy chuyện lạ, một số người cho rằng đây là đôi rắn “có chân tu” nên mới về chùa để “nghe giảng giải kinh Phật”...
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Có thể nói, trong số hàng trăm sản phẩm bằng tre của các nghệ nhân làng Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) tạo nên, chúng tôi ấn tượng nhất là đèn lồng các loại. Từ đèn ú, đèn lục giác, bát giác… Tuy khác nhau về mẫu mã, hình dáng nhưng tất cả đều chan chứa tâm tình, gửi gắm “cái hồn” của làng nghề nơi đây.
Bên cạnh lớp nghệ nhân "vàng", lớp những nghệ sỹ "măng non" - nghệ sỹ trẻ là thế hệ mới sẽ đồng hành cùng nghệ thuật Ca Huế trên con đường phát huy giá trị di sản này ra cộng đồng, tiến tới hội nhập di sản quốc tế. Do đó, việc làm sao để truyền lại vẹn nguyên bản sắc, đúng cái "chất" của Ca Huế cho lớp nghệ sỹ trẻ kế tục cũng đang là vấn đề được các ban, ngành quan tâm.
Chuyên đề trọng điểm của số báo này, dành nhiều trang về Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn, nhà văn hóa Huế. Những trang văn của ông, như chiếc đũa thần, thức dậy những vỉa tầng văn hóa Huế. Một điều khác, ông cùng bạn bè thuở ấy, với một hệ mỹ cảm khác biệt, đã tạc vào văn nghệ Huế, Việt Nam những giá trị trường cửu.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Tại Huế, toàn bộ các ấn quý bằng vàng, bạc, ngọc hay còn gọi là Kim Ngọc Bảo Tỷ đến nay không còn một chiếc nào. Có lẽ thật sự đây là điều đáng tiếc nhất khi xuất xứ những chiếc ấn quý đó đều từ Huế mà ra.
Những biến cố của lịch sử đã khiến cho một lượng cổ vật lớn và quý hiếm đã “biến mất” khỏi cố đô Huế. Hãy cùng lật lại những điểm mốc ấy.