“Công dân toàn cầu” nhắc lại một sự kiện cách đây hơn 150 năm

14:11 23/07/2015

Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...

Phó sứ Phạm Phú Thứ.

Giữa thời hội nhập này, khi giới trẻ không chỉ riêng ở Việt Nam hướng tới một khuynh hướng phấn đấu để trở thành “công dân toàn cầu” tạo nên những giá trị mới mẻ và mở ra những chân trời rộng lớn cho sự phấn đấu, sáng tạo cũng như hướng nghiệp, không rõ câu chuyện dưới đây thuộc về thời gian của hơn 150 năm về trước có phải là đã lỗi thời rồi không?

Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864). Sự kiện này lại gắn với một đoạn khúc bi thảm của dân tộc khi phải đứng trước một thử thách mới là cuộc xâm lăng và mưu đồ đô hộ nước ta của những kẻ thù đến từ phương Tây.

Để giành được quyền lực và trở thành một vương triều cầm quyền trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, khởi đầu từ vị vua lập triều Nguyễn là Gia Long, những mối quan hệ với nước Pháp đã được xác lập như một đồng minh chống nhà Tây Sơn để rồi đến giữa thế kỷ XIX trở thành một mối hiểm họa.

Dưới triều vua Tự Đức, quân Pháp công khai thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược, và sau những chống trả ban đầu, triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp và năm 1862, ký Hiệp ước Nhâm Tuất trao ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho quân viễn chinh Pháp.

Để rồi, năm 1863, vua Tự Đức cử một sứ đoàn đầu tiên của Đại Nam qua Pháp với hy vọng “chuộc” lại ba tỉnh đã mất. Ngoài mối quan hệ truyền thống với Trung Hoa, đây là hoạt động ngoại giao đầu tiên của một Nhà nước Việt Nam với một quốc gia ở Châu Âu.

Sứ đoàn lại do Thượng thư Phan Thanh Giản, người phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc để mất 3 tỉnh miền Đông vào tay ngoại bang, đứng đầu.

Đoàn khởi hành rời kinh đô Huế từ ngày 21.6.1863 đến ngày 28.3.1864 thì trở về tới cảng Thuận An... vị chi hành trình vừa trọn một năm và một tuần lễ. Phó đoàn là Phạm Phú Thứ, người đã ghi chép lại dưới dạng nhật ký chuyến đi sứ này (Tây hành nhật ký), nhờ thế đến nay chúng ta biết được nhiều chi tiết về chuyến đi lịch sử này.


Chánh sứ Phan Thanh Giản.

Ngoài những chi tiết liên quan đến công cuộc ngoại giao giữa hai quốc gia, những tình tiết được ghi chép về chuyến đi này còn cho thấy mối tiếp xúc giữa hai nền văn hóa không chỉ giữa hai quốc gia Việt và Pháp mà còn cả của hai nền văn minh Đông và Tây vào thời điểm lịch sử cách nay đã một thế kỷ rưỡi.

Để qua Pháp sứ đoàn phải đi bằng tàu biển của Pháp mang tên “Europeén” theo hải trình xuất phát từ Sài Gòn (18.3.1863) qua cảng Singapore - Mã Lai rồi vượt qua Ấn Độ Dương vào biển Hồng Hải đến Ai Cập. Thời điểm này chưa có kênh đào Suez nên sứ đoàn phải lên bộ đi tàu hỏa ghé qua thủ đô Le Caire, rồi thành phố Alexandrie để vào Địa Trung Hải.

Bằng tàu biển ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Italia rồi cập bến cảng Toulon của nước Pháp vào ngày 9.9.1863 để rồi từ đó sứ đoàn lên tàu hỏa đến Marseille rồi tới thủ đô Paris vào chập tối ngày 13.9.1863. Tổng cộng là kém một tuần đầy ba tháng để từ Huế đến Paris và chiều dài của hành trình từ Gia Định đến kinh đô nước Pháp là 28.687 dặm.

Cái khoảng cách địa lý ấy cũng chứa chấp rất nhiều những khoảng cách văn hóa tạo nên những chi tiết thú vị được vị Phó sứ ghi chép khá tỉ mỉ trong nhật ký của mình về những ứng xử văn hóa mà sứ đoàn gặp phải. Ví như, khi tàu biển chở đoàn tới cảng Suez của Ai Cập (17.8.1863), sau những nghi thức thực hiện theo tập quán, sứ đoàn Đại Nam được yêu cầu phải trương quốc kỳ.

Lá cờ của Hoàng triều thời Nguyễn chỉ có một màu vàng, vì thế lấy lý do sợ lẫn với các nước khác (cách nói ngoại giao của chủ nhà vì e ngại màu vàng theo thông lệ quốc tế thời đó là ký hiệu gắn với những nơi có dịch bệnh) nên đề nghị điều chỉnh. Có sử liệu nói rằng Chánh sứ bèn lấy bút chấm son đỏ để viết, còn Phó sứ thì ghi trong nhật ký là lấy tơ đỏ để thêu bốn chữ “Đại Nam Khâm sứ”, coi đó là cờ của sứ đoàn.

Kể từ khi đặt chân tới nước Pháp, sứ đoàn tiếp xúc với rất nhiều tập quán, phong tục, nghi thức vốn xa lạ với những gì ở trong nước hay của phương Đông... Những chi tiết này được tác giả “Tây hành nhật ký” ghi chép rất hay.

Nhưng có một chi tiết không thấy sứ đoàn chép lại mà các tờ báo phương Tây khi đó mô tả như một ngạc nhiên về một thói quen của những sứ giả đến từ miền nhiệt đới. Chi tiết này được thông tín viên của tờ báo “Nelson Exaniner” viết từ Paris gửi về đăng ngày 7.1.1864.


Bà Thị Sen.

Đó là nỗi ngạc nhiên của Bộ trưởng Ngoại giao của triều đình Versailles trong khi làm việc với sứ đoàn An Nam (cách gọi đương thời) để chuẩn bị cho buổi ra mắt chính thức trước hoàng đế Pháp tại cung điện Tuileries.

Ngạc nhiên vì được biết các thành viên của sứ đoàn sẽ... đi chân đất để tỏ lòng thành kính với vị nguyên thủ quốc gia của nước chủ nhà. Phía sứ đoàn nhắc lại nhiều lần là việc không dám “cả gan xuất hiện với đôi chân của mình bị che lại vì như thế là thất lễ”.

Trong khi đó, cơ quan ngoại giao của chủ nhà thì giải thích rằng hoàng đế của mình “không coi việc đi chân trần là sự tôn kính mà hoàn toàn là ngược lại”. Thuyết phục mãi, cuối cùng sứ đoàn của Thượng thư Phan Thanh Giản phải chấp nhận để các thợ đóng giày của Hoàng gia Pháp tức tốc trang bị cho mọi người trong đoàn giày để đi (theo nguyên tắc giày của Chánh sứ là một đôi ủng cao gần đầu gối và cứ thấp dần theo phẩm hàm và cương vị của các thành viên trong đoàn).

Bài báo còn nhắc lại câu chuyện tương tự với Sứ đoàn Xiêm La (Thái Lan) đến nước Pháp cũng phải làm quen với một số trang phục thích hợp với xứ sở ôn đới giá lạnh và câu chuyện chưa quen sử dụng khăn tay (mouchoir) để lau chùi khi ăn uống hay có vấn đề về hô hấp. Sự mô tả hoàn toàn theo tập quán chứ không phải là sự kỳ thị khi người Việt hay người Xiêm có thói quen sử dụng các ngón tay khéo léo để làm việc ấy.

Duy có người Nhật thì được nhận xét rằng, họ không chấp nhận việc dùng các khăn tay bằng vải sau khi sử dụng lại bỏ vào túi để dùng lại lần khác như người phương Tây mà họ dùng những vuông giấy nhỏ, dùng xong là đốt liền rất vệ sinh. Người Pháp cũng học cách đó của người Nhật và hướng dẫn Sứ đoàn Việt Nam và Xiêm làm theo cách đó...

Bài báo mang tính thời sự ấy chính xác đến mức nào chưa thể xác minh, nhưng nếu quan sát những tấm ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX ở nước ta thì ngay trong đời sống hoàng gia hay trong các chức dịch làm việc ở kinh đô Huế thì thói quen đi đất vẫn khá phổ biến. Còn trong dân gian thì còn phổ biến hơn nữa khi môi trường sống và lao động chủ yếu gắn với bùn và nước...

Cũng trong di cảo chứa chất nhiều sử liệu của Phạm Phú Thứ, có những đoạn mô tả cảm động về nỗi niềm “nhớ nhung” và việc bảo tồn những thói quen, tập quán của dân tộc của những người Việt xa xứ vào thời kỳ còn rất hiếm hoi.

Ngày 5.10.1863, trong lúc sứ đoàn chờ ngày được Hoàng đế và Hoàng hậu Pháp tiếp, thì có một phụ nữ đã lớn tuổi, nhũ danh là Thị Sen, tìm đến xin gặp đoàn. Đó chính là vợ của một trong hai chuyên viên quân sự người Pháp được vua Gia Long trọng dụng như cố vấn giúp nhà chúa Nguyễn Ánh, sau đó là nhà vua Gia Long sử dụng một số thiết bị hàng hải và quân sự để giành quyền lực.


Trương Vĩnh Ký đi theo đoàn làm phiên dịch.

Chồng người phụ nữ tên là Vannier, có tên Việt Nam là Nguyễn Văn Chấn.

Sau khi vua Gia Long băng hà, người kế nghiệp là vua Minh Mạng luôn đem lòng e ngại Pháp lấn quyền nên không còn trọng dụng những nhân vật ngoại quốc này nữa buộc họ về nước. Bà Thị Sen theo chồng về nước tính đến ngày tìm gặp Sứ đoàn đã 37 năm (khoảng 1826) và đã 75 tuổi. Nghe tin có sứ đoàn từ quê hương sang bà đi xe hỏa từ thành phố Lorient lên kinh đô xin phép được gặp và cùng cô con gái khi qua Pháp mới lên hai nay đã gần bốn chục tuổi.

Nhật ký của Phó sứ kể lại rằng người phụ nữ cho biết mình sinh ra ở Lò Đúc, kinh thành Huế, kể từ khi theo chồng qua Pháp đã nhiều lần định về nhưng chưa thu xếp được thì chồng mất, lại có đến 10 đứa con và đến nay đã có đến thế hệ thứ ba, cháu trai đã 20 tuổi. Được gặp những người đồng hương ngay giữa nước Pháp với bà là ngoài sức tưởng tượng, bà vẫn giữ được những bộ mũ áo vua Gia Long ban cho chồng bà, tiếng Việt vẫn nhớ và sử dụng được nhưng đôi lúc vẫn phải pha tiếng Pháp v.v...

Hai hôm sau, ngày 7.10, sứ đoàn tổ chức lễ “vạn thọ” mừng ngày sinh của đức vua, Thị Sen lại cùng con trai, con gái và các cháu đến dự. Phó sứ Phạm Phú Thứ mô tả người đàn bà này và cô con gái vẫn mặc áo sa, đầu chít khăn nhiễu... Nhiều lần sau đó, những thành viên trong gia đình này vẫn qua lại Sứ quán để bày tỏ sự quyến luyến với cố quốc. Cuộc gặp gỡ của Sứ đoàn với các “Việt kiều tiền bối” này cũng được bài báo đăng trên tờ báo Nelsson Examiner nêu trên thuật lại, chỉ kèm thêm một nhận xét về ẩm thực của Việt Nam được “thể hiện” trong bữa tiệc này là có rất nhiều gia vị là các loại ớt xanh và ớt đỏ phơi khô được đem theo từ trong nước trữ trong ba mươi hộp lớn trong hành trang...


Sau khi thực hiện được hai sự kiện quan trọng là chứng kiến Quốc hội Pháp họp dưới sự chủ tọa của Hoàng đế Napoléon III và bệ kiến người đứng đầu Cung điện Tuileries, Sứ đoàn Phan Thanh Giản lên đường hồi hương. Trên đường về Sứ đoàn còn ghé vào Tây Ban Nha và cũng được người đứng đầu vương quốc có nhiều can hệ với nước ta tiếp cùng các sứ thần nhiều nước khác, thì Sứ đoàn lại bất ngờ gặp một người đồng hương đã lưu lạc sang đây từ nhiều năm trước.

Đó là một người tên là Hóa độ năm, sáu chục tuổi, khai quê ở Đà Nẵng theo các thầy truyền giáo sang Tây Ban Nha đã lâu đến mức tiếng Việt quên nhiều, nghe tin có sứ đoàn từ quê hương ghé qua vội đến gặp để thỏa nỗi nhớ nhà, nhớ nước và hy vọng sẽ có ngày...

Liên quan đến chuyến đi này còn có một chi tiết quan trọng là khi đến Paris, các thành viên trong đoàn được phía chủ nhà yêu cầu cho phép thợ ảnh của họ đến chụp hình để hoàng đế có thể được biết trước dung nhan các sứ thần từ phương xa tới. Thời điểm này, máy ảnh là phát minh của nước Pháp tuy còn mới, nhưng chỉ cần xem các bức hình chụp cách nay 150 năm đủ thấy chất lượng việc chụp và bảo quản ảnh của nước Pháp đạt tới trình độ nào. Nhờ vậy mà giờ đây chúng ta còn có được những tấm ảnh quý liên quan đến những nhân vật được nhắc đến trong bài viết này (*).

Câu chuyện kể trên cho thấy những buổi đầu tiên nước ta tiếp xúc với phương Tây, bên cạnh vấn đề chính trị liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân còn có cả câu chuyện giao lưu văn hóa. Trong sự khác biệt ấy người ta nhận biết bên cạnh sự đụng độ ban đầu thì bao giờ cũng có sự làm quen, chia sẻ và tiếp nhận lẫn nhau.


Riêng cái tình tự dân tộc trong mỗi con người, như câu chuyện những người Việt xa xứ thuộc thế hệ đầu tiên ở Châu Âu, thì nhu cầu hướng về quê hương bản quán, gốc gác tổ tiên cũng như giữ gìn những tập quán và bản sắc trong đời sống thì đời nào và mãi mãi vẫn là một giá trị nhận dạng của con người nói chung và của người Việt nói riêng. Sự trở về không chỉ là sự vận động không gian mà quan trọng nhất là sự định hướng trong tâm tưởng.

 
Theo Tầm nhìn.net

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SHO - Chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2015), Liên hiệp các hội VHNT tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế tổ chức khai mạc triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật với chủ đề: “Thừa Thiên Huế- 40 năm xây dựng và phát triển”  vào chiều ngày 25/3, tại Bảo tàng Văn hóa Huế - số 25 Lê Lợi - Thành phố Huế.

     

  • Tiếp bước hành trình khám phá những ngôi chùa Huế, ta sẽ đến với một ngôi chùa – một tổ đình – nơi thể hiện tấm lòng bao dung của nhà Phật với những con người không toàn vẹn – Từ Hiếu. Chùa nằm ở thôn Dương Xuân Thượng III, xã Thủy Xuân, thành phố Huế.

  • Khi bàn về Nhã nhạc người ta thường chú trọng nhiều đến thành phần, biên chế các loại dàn nhạc và bộ phận nhạc không lời do các nhạc cụ diễn tấu, mà ít đề cập đến một bộ phận quan trọng của Nhã nhạc là thể loại nhạc có lời.

  • Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương.

  • Để nhã nhạc cung đình Huế “sống lại” như ngày hôm nay, có công rất lớn của cụ Lữ Hữu Thi- nhạc công cuối cùng của triều Nguyễn. Cụ đã âm thầm, kiên trì vượt qua khó khăn trước những thăng trầm của lịch sử để giữ gìn và trao truyền ngọn lửa nhã nhạc, đưa nhã nhạc từ chỗ bị lãng quên trở thành di sản của nhân loại.

  • Nhà văn Nguyễn Tuân đã tinh tế nhận xét: “Người Huế ăn bằng mắt trước khi ăn bằng miệng”.

  • Ngài thủy tổ họ Hồ Đắc làng An Truyển, xã Phú An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế vốn là gốc từ ngoài bắc vào lập nghiệp thường được dân làng gọi là Hồ Quản Lãnh.

  • Nói thiệt thì o Huế của tôi cũng có uy lắm đấy, đừng tưởng là o hiền. Đôi lúc vui miệng tôi hỏi o: “Vậy chớ Kho Rèn ngoài nớ nó rèn cái giống gì vậy?”, thì o không trả lời mà trừng mắt nhìn tôi!!!

  • Địa danh Thanh Hà thuộc xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay. Nằm phía bờ tả ngạn sông Hương, cách kinh thành Huế 4 km, cách cửa biển Thuận An khoảng 10km. 

  • Tranh làng Sình đã trở thành nhu cầu của đời sống văn hóa, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hóa truyền thống xứ Huế.

  • Sáu câu chuyện dưới đây là 6 lần thoát chết của vua Gia Long do Diễn đàn lịch sử Việt Nam biên tập, xin giới thiệu đến với quý bạn đọc.

  • Đêm xuống, sau khi chờ cha đi ngủ, đứa bé mới trốn cha đi học hát. Người chị cột sợi dây ở ngón tay, đầu dây kia móc ở ngách cửa, lơ mơ ngủ. Khuya, cô em gái về, khẽ giật sợi dây, cánh cửa được hé ra, một bóng nhỏ loắt choắt nhanh nhẹn len vào trong, bóng đêm im lìm phủ lấy ngôi nhà, không một ai hay biết.

  • Từ xa xưa, nghệ vàng thuốc bắc là một trong những phương pháp bí truyền của các bà mụ xứ Huế để giúp các mỹ nữ Cung Đình lấy lại vóc dáng thon gọn và làn da hồng hào, quyến rũsau khi sinh.

  • Từ xưa cho tới nay, câu chuyện về những cổ vật là đồ tùy táng luôn được bao trùm bởi những lời đồn thổi nhuốm màu ma mị tâm linh. Người nào lấy trộm hoặc có được những thứ không phải của mình sẽ bị quả báo. Nhưng dù rùng rợn ma quái đến đâu, dù cho những lời nguyền quả báo có ám ảnh thế nào đi chăng nữa thì những món đồ cổ có giá vẫn luôn có sức hút đối với những kẻ khoét ngạch trộm cổ vật…

  • Theo Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, khi biên soạn cuốn sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, nhà văn Sơn Nam đã lặn lội từ Nam Bộ ra Huế, ngược dòng Hương Giang, lên đến ngã ba Tuần, rồi vượt sông qua bên tê tả ngạn dòng Tả Trạch để kính viếng lăng chúa Nguyễn Phúc Chu....

  • Nằm dưới chân nơi an nghỉ của cụ Phan Bội Châu, là ngôi mộ của hai chú khuyển. Ngày hai chú khuyển mất, chính bàn tay cụ Phan chôn cất và lập bia mộ. Gần 100 mùa xuân đi qua, câu chuyện về hai chú khuyển trung thành cũng phai nhạt trong ý niệm bao người. Đến bây giờ, nhiều người lại đặt ra câu hỏi: Vì sao lại có hai ngôi mộ ấy?

  • Từng lâm cảnh đầu rơi với thịt nát xương tan, người ta đồn rằng đây là những vị thần trấn yểm, bảo vệ giấc ngủ và gìn giữ kho báu mà triều thần an táng cùng Vua Gia Long dưới lòng cổ mộ!

  • Du khách đến Huế, dường như ai cũng muốn tham quan những cung điện vàng son một thuở bên trong những vòng tường thành rêu phong cổ kính, hay viếng thăm những lăng tẩm uy nghi của các vị vua triều Nguyễn đang giấu mình dưới bóng cổ tùng nơi vùng đồi núi chập chùng ở phía tây Kinh Thành Huế…

  • Lên A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế những ngày này, khắp các bản làng của đồng bào dân tộc Pa Cô đều đang rộn ràng chuẩn bị đón lễ hội A Za - ngày Tết truyền thống của đồng bào trên đỉnh Trường Sơn này. Đây cũng là thời điểm kết thúc vụ mùa cuối năm, khi những hạt lúa, bắp ngô, củ sắn… đã được thu hoạch và cất vào trong kho của mỗi gia đình; là lúc để bản làng trẩy hội, cất lên những điệu khèn, điệu múa… hay nhất đón chào Tết A Za.

  • Ngày 16/1/2015, tại Nhà hát Quân đội, Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã tổ chức Lễ trao giải thưởng Bộ Quốc phòng về văn học nghệ thuật, báo chí đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng 5 năm ( 2009-2014).