Tôi xin phép lấy nhận xét về thời trang của nhà thơ đương thời người Đức E. H. Ballermann để trả lời ngay - trước khi lý luận - câu hỏi thường đặt ra cho tôi "Áo dài truyền thống có đi ngược trào lưu hay xu hướng thời trang hiện đại không”, rằng: Không!
GS. TS. Thái Kim Lan trong trang phục áo dài gấm the thời Nguyễn
Ngược lại chính chiếc áo dài xưa nhất đối với tôi trên phương diện thời trang và phong cách văn hóa, ngày hôm nay lại là hiện đại nhất. Cái cũ nhất lại là cái mới nhất trên cả ba phương diện: phong cách mỹ thuật nhất cho một y phục cả nam lẫn nữ, thời trang (mode) nhất cho hiện nay, và đặc sắc nhất cho một tính cách văn hóa Việt Nam. Lịch sử hình thành chiếc áo dài từ hơn ba trăm năm nay cho thấy chiếc áo dài ôm trọn được cả 3 điểm nhất ấy.
Dấu ấn của một nền văn hóa mới
Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744 cho thiết kế chiếc áo dài ngũ thân, ông đã không xem y phục như một thứ che thân đơn giản. Áo dài mà ông đề xướng mang ý nghĩa của một sứ mệnh văn hóa đặc thù cho con người sống trong thời của ông trên nhiều lĩnh vực đạo đức và thẩm mỹ nhân bản. Ngoài dấu ấn độc lập chính trị đối với chúa Trịnh và các nước láng giềng, áo dài như y phục nam - nữ của người Đàng Trong là dấu ấn của một nền văn hóa mới ấn định cung cách con người trong cách sống mới, phân biệt với lề lối của người ngoài xứ. Ngoài việc che đậy thân thể, áo dài nhắc nhở con người sống hiếu thảo thuận hòa với cha mẹ anh chị em, trung tín với người chung quanh, kính trọng ta và người. Áo dài có ngũ (năm) thân tượng trưng phụ mẫu của hai bên cha mẹ và chính người mang áo, năm hạt nút cài áo mang ý nghĩa ngũ thường, nhân - lễ - nghĩa - trí - tín, đưa tín hiệu người mang áo tôn trọng nghi lễ làm người trong xã hội.
Qui định thời trang của vị Chúa nổi tiếng gương mẫu và tài ba dưới dạng mẫu “áo dài” đã được người đương thời tuân phục và phát huy, trở nên một “mốt” y phục cho các tầng lớp người trong xã hội từ cung đình, cho đến quan lại và thường dân nam nữ. Bất kể tuổi tác hay giai cấp, họ có chung một mẫu y phục tiêu biểu dưới thời chúa Nguyễn cuối thế kỷ XVIII, trải qua thế kỷ XIX, đến khi vua Nguyễn Gia Long thống nhất toàn thể đất nước và vị vua kế tiếp, Minh Mạng đã ra sắc lệnh “thống nhất y phục bắc nam” cho tất cả người Việt. Áo dài và quần dài từ đó được công nhận như là quốc phục cho cả nam và nữ trên lãnh thổ Việt Nam.
Cúi đầu thán phục và ngưỡng mộ
Có thể nói áo dài vẫn giữ vai trò độc tôn như là quốc phục mãi đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mặc dù đầu thế kỷ XIX ảnh hưởng của Tây phương khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp đã bắt đầu lan tỏa lên toàn diện đời sống văn hóa của người Việt.
Trong trào lưu cách tân khoảng thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhìn lại chiếc áo dài cổ điển và “cách tân” chiếc áo dài đặc biệt cho người phụ nữ, trong lúc chiếc áo dài của nam giới hầu như bị hoán đổi bởi lối ăn vận Âu phục như một tuyên ngôn cách mạng (cắt tóc ngắn, mặc Âu phục). Có lẽ cũng cùng cảm hứng với người phát minh chiếc áo dài, nhưng dưới ảnh hưởng của thời khai sáng Âu châu, chiếc áo mà nhà thiết kế Cát Tường đề nghị lại nhấn mạnh nữ tính và vẻ đẹp phụ nữ so với chiếc áo rộng buông thả ngày trước, ông thu hẹp vạt áo thành hai tà, đổi ngắn thành dài. Cát Tường nhìn chiếc áo dài thể hiện được ưu điểm của phái yếu: Vẻ đẹp đàn bà trong cả hai phương diện tâm hồn và thể xác.
Thập niên 1930, 1940, chính chiếc áo dài là thời trang “par exellence” cho phụ nữ Việt với điểm nhấn tà áo dài hơn, đường eo rõ hơn. Qua chiếc áo dài, Cát Tường nhấn mạnh sự uyển chuyển đường cong đồng thời vẫn giữ nét kín đáo mà áo dài vốn có, mặt khác ông tôn trọng những quy củ áo truyền thống như nút gài, cổ áo thấp, vạt áo rộng vừa phải, hai tà úp kín dáng người...
Áo dài trong phong ba bão táp của thời Pháp thuộc, lạ thay vẫn giữ vị trí bất di bất dịch là áo truyền thống Việt Nam. Có thể nói, tham vọng của chính quyền thuộc địa Pháp trong suốt một trăm năm đô hộ là Pháp hóa người Việt, nhưng tham vọng ấy đã dừng lại trước chiếc áo dài, như quốc phục Việt Nam. Có lẽ chỉ có chiếc áo dài với phong cách độc đáo của nó đã chinh phục người Pháp (mãi đến thời đại bây giờ có lẽ càng hơn), làm cho người kiêu căng quyền lực nhất cũng phải cúi đầu. Sự cúi đầu này nên được hiểu đúng nhất bao hàm sự thán phục trước một vẻ đẹp - nói riêng về thời trang, y phục - trước một nét thẩm mỹ độc đáo không nơi nào có được. Điều này tôi có thể cảm nhận được qua kinh nghiệm bản thân, trong thời gian du học tại Đức, khi mặc chiếc áo dài đến trường, một sinh viên Đức đã đến quỳ gối và nâng tà áo dài lên hôn với ánh mắt đầy ngưỡng mộ. Pháp, Đức, Mỹ hay ở nơi đâu khác, chiếc áo dài Việt Nam vẫn hiện thân sự sáng tạo đầy thẩm mỹ tôn vinh vẻ đẹp và nhân cách của con người mặc nó.
Thập niên 60 của thế kỷ XX, áo dài một lần nữa được cách tân qua thiết kế mới của đạo diễn Thái Thúc Nha với cổ decollete, khoét rộng, nhấn mạnh vòng ngực, áo chít eo theo kiểu lưng ong, vạt hẹp và dài phết đất, được trở nên thời trang, mode, nhất là ở các thành phố miền Nam xa Huế. Sự phổ biến được lan rộng với sự ủng hộ của các nghệ sĩ mọi tầng lớp như Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, bà Trần Lệ Xuân...
Áo dài vào... đáy rương
Sau mười năm giữa thập niên 1970 cho đến giữa thập niên 1980, trong cơn khủng hoảng văn hóa về truyền thống bị xem là phong kiến, áo dài biệt tăm trên đường phố. Tôi vẫn còn nhớ mãi sự hụt hẫng, nuối tiếc và đau lòng khi trở về quê hương lần đầu tiên, quang cảnh đường phố, sinh hoạt công cộng không còn bóng dáng chiếc áo dài, ngôi trường xưa không còn tà áo trắng thướt tha.
Sự thâm nhập đa dạng không kiểm soát từ nước ngoài trên phương diện thời trang tại Việt Nam khoảng thập niên 1980, 1990 đã tạo nên một giai đoạn thời trang khá phức hợp, nếu không nói là hỗn loạn từ những y phục Tây phương second hand qua gói viện trợ phát triển. Mốt Tây phương không chọn lọc hầu như chế ngự bản đồ thời trang Việt một thời gian dài đã đẩy lùi chiếc áo dài vào đáy rương. Những chiếc áo xưa có khi còn bị bán tháo để đổi lấy chén cơm như nhiều gia đình quý tộc trong cơn sa sút buộc lòng phải bỏ áo. Áo dài tưởng như biến mất. Nhưng không. Sự khủng hoảng không thể xóa mất nét đẹp, văn hóa truyền thống của áo dài.
Đó là khoảng thời gian cho những người yêu áo dài thấy rõ giá trị không thể thay thế được của chiếc áo dài trong đời sống xã hội Việt Nam. Nó đồng hóa với bản lai của một dân tộc từ hơn ba trăm năm. Cho nên trăn trở với sự tồn vong của chiếc áo dài. Không ít người sục sạo đi tìm bản lai của chiếc áo dài, trong đó có tác giả của bài viết này, như một nỗi đam mê bị thu hút bởi vẻ đẹp độc sáng của chiếc áo dài xưa.
Bộ sưu tập áo dài tôn vinh văn hóa các vùng miền của Việt Nam của NTK Ngọc Hân | Nguồn: VOV |
Được đánh thức hồi sinh
Áo dài đã được đánh thức hồi sinh từ nhiều góc nhìn khác nhau trên thế giới khi Việt Nam mở cửa hội nhập. Người Việt Nam ở hải ngoại có lẽ là những người mơ ước áo dài nhất khi trở về quê hương. Kế tiếp là khách nước ngoài du lịch Việt Nam, từ thập niên 1990, mà sự tìm tòi nét tiêu biểu của văn hóa Việt Nam thường dừng lại nơi chiếc áo dài không nơi nào sánh được. Trên lĩnh vực văn hóa và thời trang, áo dài trở lại bằng con đường của biểu diễn hơn là y phục cho đời thường, những lễ hội áo dài từ năm 2000 ở các thành phố như Huế, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, đã đưa áo dài thành những biến tấu, những thương hiệu khác nhau. Sự quảng bá áo dài, dù từ góc độ biểu dương bề ngoài, đôi khi như một nước sơn đánh bóng với những biến tấu quá mức, nhưng có lẽ cần thiết cho một cuộc hồi sinh. Chính trong bối cảnh này áo dài dưới hình thức cổ điển lại đáp ứng được “mốt” thời trang vừa lịch lãm nghiêm trang, vừa quý phái thanh thoát, nó trở thành mới nhất giữa những mốt mới theo phong cách Âu châu đang nở rộ tại Việt Nam. Nhiều gợi hứng sáng tạo của thời trang Âu châu hiện đại đến từ mẫu áo dài cổ điển được phổ biến khắp nơi.
Đã có nhiều sự kiện xảy ra chung quanh việc khôi phục áo dài Việt Nam song song với phong trào toàn cầu hóa, việc sưu tầm áo dài xưa nguyên bản để nhận lại bản lai diện mục chiếc áo dài là điều cần thiết. Trong điều kiện khiêm tốn của mình, các triển lãm bộ sưu tập áo dài xưa cung đình Nguyễn tại Viện Goethe Hà Nội năm 2015 và tại Bảo tàng Văn hóa Huế năm 2016, cũng như triển lãm bộ sưu tập áo dài nam tại Huế năm 2018, đều nằm trong ý hướng trình bày những bộ áo nguyên bản chứ không phải sao chép để gây cảm hứng cho người đương thời, rằng chiếc áo dài là hồn cốt của phong cách Việt Nam có thể giúp ta phân biệt và nhận diện mình trên thế giới.
Sự khám phá lại vẻ đẹp của chiếc áo ngũ thân dành cho nam giới hiện nay lại là một phá cách mới đang được chú ý và thảo luận, chứng tỏ hơn một lần, rằng dù phong cách Tây phương với những bộ sưu tập của các nhà thiết kế với áo đầm đủ kiểu phong phú, nhưng phong cách ấy vẫn còn tuỳ thuộc với phong cách Âu châu đã có truyền thống lâu đời - vậy nên vẫn so le một bước. Trong lúc ấy, sự trở lại với áo dài nam hay nữ, theo tôi, chính là cái mới theo phong cách Việt Nam với những sáng tạo của nghệ nhân đương thời.
Cũng trong ý nghĩa này, xin nhắc lại lời phát biểu trong buổi khai mạc triển lãm áo dài năm 2015: “Có lẽ trong khi chiêm ngưỡng những chiếc áo dài này, những chiếc tàn y, chúng ta sẽ nhận ra được rằng chúng không tàn mà lại thêm tươi. Vẻ đẹp của chúng có thể gợi cho chúng ta những cảm hứng nghệ thuật chính nơi những khoảnh khắc đồng thời hiện đại của xã hội đang đổi thay từng giờ, rằng cái xưa vẫn còn nhiệm vụ nhắc nhở chúng ta về một truyền thống văn hóa Việt sâu xa và nồng hơi ấm con người, rằng nếu không có quá khứ thì những gì hiện đại sẽ ly tán, vụn vặt hư hao ý nghĩa, rằng cái hiện nay cần được chiếu sáng hơn từ cái xưa kia để sáng tạo nên hiện tại sẽ là quá khứ độc sáng cho mai sau, rằng bảo tồn văn hóa chính là nuôi dưỡng mạch sống không ngừng cho thế hệ kế tiếp…”
Nguồn: GS TS Thái Kim Lan - ĐBND
Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.
Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.
Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.
“Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.
Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.
Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.
Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.
Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.
Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.
Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…
Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.
Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.
Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.
“Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.
Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.
Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?
Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.