TRẦN THỊ NHƯ NGỌC
Viên Chiếu thiền sư không những là bậc chân tu, còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn Tham đồ hiển quyết, đó là kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học thiền tông Việt Nam.
Ảnh: tư liệu
Theo Thiền uyển tập anh, thiền sư Viên Chiếu (999 - 1091), chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long. Sư họ Mai, tên Trực, người Long Đàm, Phúc Đường. Là con người anh bà Thái hậu Linh Cảm nhà Lý. Từ nhỏ đã thông minh hiếu học. Sư xuất gia và thọ giáo với thiền sư Định Hương núi Ba Tiêu. Sư rất tinh thông pháp Tam quán trong kinh Viên Giác, thâm đắc ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát, người đến học rất đông1. Như vậy, thiền sư Viên Chiếu không những là vị cao tăng đắc đạo của nhà Lý mà còn là tác gia văn học nổi tiếng. Những tác phẩm của sư gồm có Dược Sư thập nhị nguyện văn, Tán Viên Giác kinh, Thập nhị Bồ Tát hạnh tu chứng đạo tràng và Tham đồ hiển quyết. Trong đó Tham đồ hiển quyết là tác phẩm duy nhất còn bảo tồn cho đến ngày nay, được viết theo thể thoại đầu thiền ngữ. Nội dung rất phong phú liên quan đến các vấn đề tu hành của người học đạo giải thoát giác ngộ, trong đó “kiến tánh thành Phật” dưới tài năng văn chương sâu sắc, thiền sư lý giải bằng hình ảnh đậm chất thi ca nhưng vô cùng thâm thúy.
Tông chỉ của thiền tông là “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật”, như vậy mục đích của thiền tông là kiến tánh. Kiến tánh là điều kiện cần thiết để thành Phật. Đây là một đường tu tập với tâm lực cực mạnh, rất ít người có đủ căn cơ để chỉ thẳng vào tâm thật của mình, thấy được bản tánh tinh tuyền của mình để thành Phật. Vấn đề kiến tánh được người học trò tham vấn thiền sư Viên Chiếu như sau. Vị tăng hỏi: “Thấy được bản tính thì thành Phật, ý nghĩa câu đó như thế nào?”. Sư đáp:
枯木逢春花竟发。
风吹千里馥神香。
“Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát
Phong xuy thiên lý phức thần hương”.
(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)2
Người học trò hỏi về ý nghĩa của kiến tánh thành Phật nhưng thiền sư lại trả lời bằng hai câu thơ giàu hình ảnh sinh động tuyệt mỹ. Nếu chỉ lãnh hội bằng tư duy thông thường sẽ thấy câu trả lời không ăn nhập với câu hỏi, và không hiểu được ý nghĩa sâu sắc mà thiền sư muốn truyền tải. Vì thế cho nên “Đọc thơ thiền không phải chỉ đọc những gì ở ý nghĩa của ngôn ngữ thông thường mà là lĩnh hội trực tiếp thông điệp bằng cách lấy tâm hội tâm, không thông qua tư duy logic lý tính. Chỉ có như vậy mới có thể đọc được cách nói nghịch lý khác thường, phi logic, không thể thấy được trong cuộc sống”3.
Ở đây, thiền sư dùng hình ảnh nghịch lý thiên nhiên, cành khô nở hoa khi gặp tiết xuân, theo lẽ thông thường tự nhiên cành khô thì dù thời tiết nào cũng không thể trổ hoa. Đó là hiện tượng trái quy luật tự nhiên nhằm gây sự tò mò tột độ, chất xúc tác cực mạnh kích thích sự tư duy “giống như luồng nội lực đả thông kinh mạch, khai nguồn cho dòng thác trí tuệ vụt lên”4.
Cành khô dụ cho người mê, bị phiền não chi phối, vô minh vọng tưởng khởi lên chưa nhận ra đâu là tánh chân thật sáng suốt, đâu là Phật tính ẩn bên trong con người của mình. Một cành khô khi gặp thời tiết thuận lợi của mùa xuân, cũng có thể đâm chồi nảy lộc dâng tặng cho đời muôn vàn nụ hoa đủ màu sắc. Thế thì sâu tận bên trong cành khô đó vẫn còn có mầm sống le lói, chính vì vậy khi hội tụ đủ nhân duyên mầm sống phát triển hiện hữu trên cõi đời. Như vậy, dù là kẻ mê, kẻ đang bị ràng buộc bởi vô minh phiền não thì bên trong mỗi con người ấy vẫn tồn tại Phật tánh thanh tịnh, điều quan trọng là chúng ta có tự mình nổ lực tu tập để nhận ra tánh giác nơi chính mình. Tánh giác này hiện diện trong mỗi chúng ta dù cho có nhận ra được hay không.
Người học trò vẫn chưa lĩnh hội được nên thiền sư mượn hình ảnh cây cà xanh tốt rợp trời mây để kiến giải về kiến tính thành Phật.
万年茄子树。
苍翠耸云端。
“Vạn niên già tử thụ
Thương thúy tủng vân đoan”.
(Cây cà vạn năm nay
Xanh tốt rợp trời mây)5
Cây cà là hình ảnh rất gần gũi với người dân, trồng nhiều trong vườn nên chúng ta thấy nó rất bình thường. Một cây cà rất đỗi bình thường xanh tốt rợp đến tận trời mây cần phải trải qua vạn năm, cũng vậy con đường thấy được tánh sáng suốt tròn đầy có những thử thách diệu dụng phi thường. Chúng ta khi nhận biết được tánh sáng suốt hiện diện thì khi đó muôn vàn hạt giống thiện lành cùng phát triển như cây cà xanh tốt đến tận mây xanh. Như vậy, Phật tánh vốn tiềm ẩn trong chúng sanh, như cây khô khi gặp điều kiện thuận lợi thì mới đâm chồi nở hoa hương thơm ngàn dặm. Hay như cây cà vốn thấp, nếu hội đủ điều kiện thì cũng có thể phát triển xanh tốt tận mây xanh.
Người học trò lại hỏi: “Ma Ni cùng mọi sắc màu, khác nhau không khác, gần nhau chẳng gần”. Sư đáp:
春花与蝴蝶。
几恋几相违。
Xuân hoa dữ hồ điệp
Cơ luyến cơ tương vi”.
(Hãy xem bướm dỡn hoa xuân
Mấy phần quyến luyến mấy phần lìa xa?)6
Ma ni là viên ngọc quý giá trong suốt, không có màu sắc, sở dĩ ma ni có màu sắc là do các vật phản chiếu vào mà ma ni mang màu sắc của vật đó. Mượn tính chất này của ngọc ma ni, người học trò muốn nói đến Phật tánh sáng suốt, tịch tĩnh bên trong của mỗi người khi tiếp xúc với vô vàn cám dỗ của trần tục, Phật tánh ấy có bị ô nhiễm hay không? Viên Chiếu trả lời qua hình ảnh tuyệt mỹ của mùa xuân, có hoa có bướm bay lượn, cho người đọc cảm nhận một bức tranh thật sống động của cuộc sống xung quanh. Càng đọc ta càng cảm nhận như thiền sư dẫn dắt người đọc nhởn nhơ trong khu vườn đầy thơ mộng, có bướm có hoa, có tất cả hình ảnh đẹp nhất của trần gian.
![]() |
Ở đây, chúng ta thấy được mối liên hệ giữa hoa xuân và bướm. Hoa nhờ có bướm mới thêm sinh động, bướm lại hút nhụy hoa, đây được xem là mối quan hệ hỗ trợ qua lại với nhau. Ngọc ma ni vốn không màu ví như tâm thể thanh tịnh trong sáng của mỗi chúng sanh, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, duyên theo cảnh trần vì thế mới hội đủ màu sắc. Bằng con mắt trần tục của chúng ta quan sát, thấy muôn màu muôn vẻ nhưng bản chất bên trong là thuần khiết không màu. Mọi sự vật hiện tượng trên vũ trụ này, đều được nhìn dưới con mắt duyên sinh vô ngã. Đến hoặc đi đều do nhân duyên, như bướm đến bay lượn bên hoa cỏ mùa xuân, hút nhụy xong rồi lại bay đi. Mỗi hành giả thấy tánh sáng suốt tịch tĩnh ấy, tùy theo nhân duyên mà biểu hiện khác nhau, có lúc gắn bó lúc rời xa.
Đến đây người học trò có vẻ chưa hiểu hết lời thiền sư, lại nêu thắc mắc: “Thế nào là theo người khác mà hỗn tạp?”. Sư đáp bằng câu thơ:
不是胡僧眼。
徒劳逞辩珠。
“Bất thị Hồ tăng nhãn
Đồ lao sính biện châu”.
(Không phải mắt nhà sư Tây Trúc
Hoài công phân biệt ngọc mà thôi)7
Có lẽ dưới con mắt của người chưa ngộ đạo, chưa nhìn thấy bản tánh thanh tịnh bên trong con người chính mình nên mới có cái nhìn hỗn tạp. Ma ni vốn trong suốt không màu nhưng lại phản ánh đủ loại màu sắc bên ngoài, chẳng phải trở thành hỗn tạp đủ sắc màu hay sao? Như vậy thì đâu phải kiến tánh thanh tịnh nữa? Viên Chiếu dạy rằng, nếu không phải là các nhà sư Tây Trúc thì không thể phân biệt được đâu là ngọc quý. Hồ Tăng ở đây “có lẽ nhằm chỉ các vị sư người Tây vực đã đến nước ta, như Cưu Ma La Thập, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Bồ Đề Đạt Ma v.v… Khi Đạt Ma đến Trung Quốc, người Trung Hoa cũng gọi ông là Hồ tử. Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi nước Ấn Độ thời cổ, là nơi phát tích của Phật”8. Như vậy, nhà sư Tây Trúc theo thiền sư Viên Chiếu là những bậc đã giác ngộ.
Theo ý của thiền sư, nếu không phải con mắt của chư Tổ ngộ đạo thì không thể nhận ra hạt châu quý. Tức là thấy bản tánh sáng suốt của tâm. Đối với người chưa ngộ đạo, chưa am hiểu Phật pháp thì việc phân biệt Phật tánh thanh tịnh hay hỗn tạp chỉ uổng công vô ích mà thôi. Cái thấy của người phàm phu còn lăng xăng trong những vọng kiến, rong ruổi chạy theo cảnh trần quên ngày tháng trôi qua rất nhanh. Không thấy sự vô thường sanh diệt trong từng sát na, lấy sự muôn màu của cuộc sống cho là thật nên không nhận ra ngay trong con người huyễn hóa này, tồn tại bản tánh thanh tịnh chân như đang hiện hữu. Người mê thì không nhìn thấy hạt ngọc trong suốt ở nơi mình, điều này khác với người đã giác ngộ được tự tánh thanh tịnh hằng hữu, thanh tịnh không xen tạp bất cứ một màu sắc nào.
Câu chuyện tiếp tục với câu hỏi của người học trò: “Thế nào là mọi người mình gặp đều là Bồ đề?”. Thiền sư Viên Chiếu trả lời:
几惊曲木鸟。
頻吹冷虀人。
“Kỷ kinh khúc mộc điểu
Tần xuy lãnh tê nhân”.
(Từng phen chim sợ cây cong
Từng phen rau nguội ra công thổi hoài)9
Câu hỏi người học trò tương tự trong Cảnh Đức truyền đăng lục: “Tăng hỏi: Thế nào đâu đâu cũng là Bồ Đề? Sư nói: Xà-lê mất đi nữa năm lương”10. Thiền sư dùng hai tích chuyện về chim sợ cây cong và thổi rau nguội để trả lời cho người học trò. Câu chuyện chim sợ cây cong xuất phát từ “câu thành ngữ (Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc chi cao phi), nghĩa là chim đã bị cung bắn hễ thấy cây cong thì bay cao”11. Câu chuyện thổi rau nguội do câu thành ngữ (Trừng canh xuy tê); nghĩa là sợ canh thổi dưa. Người ăn canh nóng bị bỏng nên sau thấy dưa nguội cũng thổi”12.
Ngài dùng hai câu chuyện trên để nói lên ý nghĩa của việc thấy mọi người đều là bồ đề, phải chăng đây là cái nhìn của người giác. Người giác thì nhìn đâu cũng là bồ đề thanh tịnh, như chim đã bị bắn thấy cây cong cũng tưởng là cung, như người ăn canh nóng thấy rau nguội cũng thổi. Lời dạy của thiền sư, người học trò vẫn chưa rõ nên xin thầy chỉ giáo lại, Ngài đáp:
聋人听琴响。
盲者望蟾蜍。
“Củng nhân thính cầm hưởng
Manh giả vọng thiềm trừ”.
(Kẻ điếc nghe đàn cầm
Anh mù ngắm trăng rằm)13
Ngôn ngữ của thiền thoại đầu thật sự gây khó hiểu cho người sơ cơ, để hiểu trọn vẹn hết ý nghĩa khó như mò kim đáy bể, người học trò chưa thể hội cũng là điều dễ hiểu.
Có thể thấy, lối dùng nghịch ngữ phi logic xuyên suốt toàn bộ tác phẩm như hai hình ảnh kẻ điếc nghe đàn cầm và anh mù ngắm trăng. Theo lẽ thường người điếc không thể nghe và người mù không thể ngắm trăng. Cũng có thể xem đây như lời quở trách của thiền sư đối với người học trò đang tham vấn. Bằng tất cả tâm huyết, thiền sư khai mở tâm trí cho người học trò thấy được bản thể, bản tánh chân thật bên trong con người chính mình mà vẫn chưa thể lãnh hội được ý chỉ của thiền sư, chẳng khác nào như người điếc và anh người mù kia.
Cuộc sống hiện thực đang phải đối mặt với rất nhiều nỗi khổ niềm đau, chúng ta tìm lối thoát hay tự trói buộc mình trong vòng luẩn quẩn luân hồi sanh tử đều do chúng ta quyết định. Có quá nhiều con đường dẫn đến bờ vực khổ đau nhưng con đường đi đến bến bờ giải thoát niết bàn chỉ có một, đó chính là trở về với con đường kiến tánh thanh tịnh chính mình. Lục Tổ đã ngộ rằng: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ”14. Như vậy, tất cả chúng sanh đều có hạt giống Phật, nhưng để làm cho hạt giống ấy hiển lộ và tăng trưởng kết thành quả Phật là một quá trình tu tập thực hành thiền định. Tu hành theo đúng tinh thần của thiền tông, con đường kiến tánh chắc chắn đưa hành giả đi đến giác ngộ và giải thoát ngay trong đời sống trần tục này.
T.T.N.N
(SHSDB40/03-2021)
----------------
1. Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr 48.
2. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 285.
3. Thích Hạnh Tuệ (2019), Văn học Phật giáo Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb. Khoa học Xã hội, tr 40.
4. Thích Hạnh Tuệ (2019), Văn học Phật giáo Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb. Khoa học Xã hội, tr 39.
5. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 285.
6. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 286.
7. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 286.
8. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 292.
9. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 286.
10. Đạo Nguyên Tổ Sư soạn, Lý Việt Dũng (dịch) (2013), Cảnh Đức truyền đăng lục, tập 2, Nxb. Hồng Đức, tr 779.
11. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 292.
12. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 292.
13. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 286.
14. Thích Duy Lực (lược giảng) (1992), Kinh Pháp Bảo Đàn, Từ Ân Thiền Đường ấn hành, Santa Ana, tr 9.
Tài liệu tham khảo:
1. Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
2. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Thích Hạnh Tuệ (2019), Văn học Phật giáo Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb. Khoa học Xã hội.
4. Đạo Nguyên Tổ Sư soạn, Lý Việt Dũng (dịch) (2013), Cảnh Đức truyền đăng lục, tập 2, Nxb. Hồng Đức.
5. Thích Duy Lực (lược giảng) (1992), Kinh Pháp Bảo Đàn, Từ Ân Thiền Đường ấn hành, Santa Ana.
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.