BÙI NGUYÊN
Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.
Tập truyện ngắn có thể nói là đầu tay của một nhà thơ đã định hình với khá nhiều thi phẩm trình làng. Truyện, bước nhảy mang tính đột phá hay một định mệnh mà Ngô Đình Hải đã phải dấn bước trên con đường văn nghiệp của mình; nhưng với tác phẩm văn xuôi đầu tay gồm 14 truyện ngắn, cũng đã đặt định cho tác giả những bước đi vững vàng đầy bản lĩnh của một cây viết sẽ đi xa hơn từ bước chân này. Bằng lối lập ngôn và văn phong dung dị của lối văn xuôi cổ điển, sự đơn giản của ngôn ngữ, kết cấu của từng câu truyện mang đúng bản sắc Nam bộ của Ngô Đình Hải trong Ngửa đã thành công khi dẫn dắt độc giả vào thế giới nhân sinh quan của mình. Chính sự cuốn hút nhẹ nhàng, không rắm rối hay cố tình hiện đại hóa thể thức hành văn khiến độc giả dễ dàng đồng cảm với ý niệm mà tác giả muốn chuyển tải. Không ngôn ngữ đao to búa lớn, không rắm rối biện minh câu chuyện bằng những suy nghiệm cao xa khiến độc giả phải mất nhiều nghiệm tưởng.
Ngửa với hành trình đi từ mộc mạc đến đơn giản cả ý lẫn từ, cũng là một thủ thuật tạo nên không gian truyện gần gũi rất mực với đời thường, là phương tiện ngắn nhất, hiệu quả nhất để người đọc dễ dàng tiếp cận được những gì tác giả cần chuyển tải mà không bị lạc vào mê cung ngữ nghĩa. Nói như người xưa “văn dĩ tải đạo” thì Ngô Đình Hải đã rất thành công. Hiển nhiên không phải truyện ngắn nào trong số 14 truyện làm nên tập truyện cũng mang lại sự thành công, nhưng tựu trung không ít thì nhiều mỗi truyện đều đặt người đọc vào một trạng thái nào đó như hoài cảm ngậm ngùi, cay chua hay tìm thấy sự gần gủi riêng tư trong một nhân vật nào đó mà tác giả đặc tả.
Ừ thì văn chương không thể tất thị chúng, nên không lạm bàn nhiều về những ngõ ngách tâm ý của toàn tập truyện như một sự cưỡng đoạt cảm nhận của người đọc, vì vậy chỉ xin tạm xoay quanh cái truyện ngắn đã được tác giả lấy làm tiêu đề cho cả tập. Truyện Ngửa với nhân vật chính là cái cột đèn hay còn gọi là trụ điện, được tác giả nhân cách hóa, ban tặng cho nó đầy đủ những cảm xúc người. Khi tác giả ban phát chia sẻ xúc cảm, nhiệm vụ thiêng liêng là soi sáng lối đi cho nhân quần vào một khối vật chất vô hồn vô cảm, nên vô hình trung, nội tâm tác giả cũng đã bị vận vào thế giới rất thực đầy chua cay đắng chát của mọi biến thiên cuộc sống rất thực bị lộ diện trong cái ánh sáng bất di của ngọn đèn đường. Một chứng nhân cho cái khoảng sáng nhỏ nhoi tách biệt với bóng tối chung quanh. Và chỉ trong “vòng ánh sáng” hạn hẹp ấy của cái trụ đèn trong một con xóm nhỏ với một đôi tình nhân không may mắn, một gã nhà thơ, cái trụ đèn; chừng đó thôi tác giả đã ngửa ra được cả một thế giới hằng sống và nổi niềm trầm cảm riêng tư của chính mình.
B.N
(SHSDB26/09-2017)
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.