NGUYỄN THANH TÂM
Trương Đăng Dung làm thơ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Thầm lặng, con người thi ca ấy ẩn khuất sau dáng vẻ của một nhà lý luận, để hơn 30 năm sau, cựa mình trỗi dậy.
Những kỷ niệm tưởng tượng (Nxb. Thế giới, 2011) chính là sự định hình quan trọng của một “dự án” đã khởi động từ rất sớm của Trương Đăng Dung(*). Từ đây, chúng ta có một thi sĩ bên cạnh một nhà nghiên cứu văn học. Mười năm, như một triết gia lặng im bên rừng chỉ để tìm lời nói cho nhịp điệu “ưu tư” của mình, Trương Đăng Dung mới xuất bản tập thơ thứ hai: Em là nơi anh tị nạn (Nxb. Văn học, 2020). Đó có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, hay một ám ảnh kéo dài, một khắc khoải triền miên, một định mệnh của lời trước áp lực về sự hoàn bị của tư tưởng? Dẫu thế nào, thi ca từ trong ý niệm của Trương Đăng Dung đã bày tỏ thái độ lưỡng lự cần thiết về nhu cầu cất tiếng với ý nghĩa mĩ học đích thực của thể loại.
Thơ có địa vị ngang hàng với triết học, nhưng thơ chẳng phải là triết học. Bởi lẽ, triết học tư duy bằng khái niệm, phạm trù, mệnh đề, còn thơ đến với con người và thế giới bằng hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, như hai người leo núi từ phía Đông và phía Tây, họ đi theo hai hướng khác nhau mà cuối cùng lại gặp nhau trên đỉnh núi. Đỉnh núi ấy là nơi sự hiền minh bừng sáng, dẫu con đường đã vượt qua không hề dễ dàng. Nó không có chỗ cho sự hời hợt, biếng lười, càng không dung nạp những kẻ nông nổi, vội vàng. Mười năm, hai mươi năm, hay Hai triệu năm, triết gia và thi sĩ vẫn trên hành trình miệt mài, ánh mắt có đôi lần được chiêm ngắm ánh sáng thần thánh, nhưng đỉnh núi còn vẫy gọi phía trước. Cứ đi, từ đi mà “phác đồ người”, “dự án hiện sinh” được thực hiện. Năng lực hiện sinh ấy mạnh mẽ hay yếu ớt, dài hay ngắn không phụ thuộc vào xác thân (dẫu nó liên quan mật thiết với xác thân), mà phần lớn phụ thuộc vào ý chí, thái độ và lựa chọn của chúng ta. Khi ngã gục trên đỉnh núi, cũng có khi nằm lại ở rìa đường, hành trình đã qua mới là tất cả những gì làm nên hiện hữu. Trương Đăng Dung có lẽ hiểu điều đó một cách máu thịt, thế nên, sau hơn ba mươi năm im lặng, rồi lại mười năm im lặng, hai tập thơ gom ánh sáng của những lần thị kiến, soi tỏ một hình hài thi sĩ trên quê hương vạn dặm: Những con đường không biết dẫn về đâu/ đường chạy theo con tàu/ đường đi cùng lữ khách/ cuộc hành trình tự nguyện/ trong đau khổ, hoài nghi/ một chấm nhỏ thi sĩ/ cuối chân trời (Tô Thùy Yên).
Như đã nói, thi ca nghệ thuật đến với con người và thế giới bằng hình tượng. Hình tượng được tu sức, làm giàu thêm các giá trị tượng trưng để trở thành biểu tượng. Thế nên, Em là nơi anh tị nạn cũng như Những kỷ niệm tưởng tượng, mang giá trị tượng trưng hơn là những gì trực hiện từ ngôn ngữ. Nếu nhìn vào tên tập thơ (Em là nơi anh tị nạn) để kiếm tìm những xúc cảm ái tình, những mộng mơ gửi gắm hẹn thề, e rằng người đọc sẽ thất vọng. Thế giới này bao phủ bởi những niềm khắc khoải, âu lo, hoang mang, hoài nghi, những cơn ác mộng, những sợ hãi tuyệt vọng, những dự báo, cảnh báo về nguy cơ tàn lụi của đời sống. Em là nơi anh tị nạn hiện ra với dáng vẻ của một trục lõi đã bong hết, đã bóc tách khỏi mọi tín điều đắp phủ lên hiện tượng (một lối tư duy đậm màu sắc Hiện tượng luận). Em không hẳn là một giai nhân, có thể là đức tin, nghệ thuật, là bất kỳ điểm tựa nào có thể nương náu, an trú. Tập thơ trả con người về trạng thái âu lo và hoang mang từ buổi sơ nguyên dắt díu nhau rời khỏi địa đàng. Đó là cuộc tị nạn đầu tiên của tổ tông, khởi đầu cho định mệnh lưu đày của loài người trên mặt đất khổ đau: Thế giới không còn chỗ bình yên. Bình yên nào trong thảm họa, chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, khủng hoảng môi trường? Bình yên nào khi thân xác phải đối mặt với tàn rữa, linh hồn phải đối diện với tha hóa, con người sợ thiên nhiên, sợ Thượng đế, sợ chính con người, ký ức không còn nơi ẩn náu, quyền lực thao túng và băm nát các giá trị… Mọi thứ dường như không hy vọng để cứu rỗi bởi cơn tha hóa khủng khiếp như miệng quái vật, đang hút tất cả vào thế giới hỗn mang tăm tối của nó. Với cảm thức này, thơ Trương Đăng Dung đặt con người vào một nỗi âu lo thường trực, một sự khắc khoải không thể ngừng lại, định dạng tình thế của tồn tại: Tôi bị sinh ra/ tôi phải dấn thân/ tôi hội đủ những điều kiện chết/ tôi không hy vọng gì (Tự do của Nikos Kazantzakis). Có thể nhận ra những mệnh đề quen thuộc, cốt lõi của triết học hiện sinh với niềm bi quan định mệnh sâu sắc. Con người không được lựa chọn để sinh ra, bị ném vào đời, buộc phải vật lộn để tồn tại. Ở đó, cái chết tháp tùng hiện hữu, là một sự kiện của hiện hữu. Không hy vọng là trạng thái của con người cảm nhận được thân phận mình giữa một thế giới bất an. Bài thơ này diễn dịch, đúng hơn là làm đầy, làm rõ những ý niệm trên lăng mộ của Nikos Kazantzakis. Sự tự do nào cho con người khi không hy vọng gì/ không còn gì để sợ? Viết về ý niệm tự do nhưng kỳ thực, bài thơ bao bọc bởi khí hậu hoang mang và tuyệt vọng bởi chính sức nặng của những ám ảnh về một “thế giới cưỡng chế hữu hình” và một “thế giới tự do vô hình”. Hiện hữu nào đây? Dưới lăng mộ hay “dưới đáy sông/ một ngôi nhà mở cửa”, hay “những bàn chân càng bước càng lún sâu vào đất” (ở tập Những kỷ niệm tưởng tượng), “thấp thoáng bóng người/ trong cỏ”… Sự bất lực là tâm thế bao trùm tập thơ. Đó là trạng thái tinh thần của chủ thể trữ tình, nhưng lại cũng là “thực kiện” (Pierre De Chardin) của đời sống, của hiện hữu. Không thể nào thoát khỏi những lo âu ấy, thậm chí, chủ thể nhận ra tình cảnh ngày càng xấu đi của tồn tại. Con người bất lực, triết học bất lực, thần học bất lực và nghệ thuật cũng cùng chung số phận (hãy đọc bài Trong quán cà phê Piano để thấy sự bất lực của nghệ thuật và sự thiếu vắng kết nối của những tồn tại người). Còn điều gì cứu rỗi cho chúng ta? Phải chăng là tình yêu? Cái ảo ảnh của một thiên đường đã mất không thôi vẫy gọi, oái oăm thay, lại càng làm đầy thêm niềm bất an, tuyệt vọng. Mơ về một mĩ thể nào đó không phải là cách để hóa giải trạng huống ở thì hiện tại, bởi lẽ khi tất cả tha hóa, chẳng có Thiên đường nào chờ đợi con người (xem: Độc thoại). Như Trương Đăng Dung đã từng viết ở tập thơ trước và tập thơ này, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải sống chung với những gãy đổ, chấp nhận tình thế lưu đày. Đó là một sự thỏa hiệp trong đau đớn mà chính những kẻ giàu đức tin nhất (như Gióp -Kinh Thánh) cũng không thể làm khác: giữa nỗi đau và đức tin/ sợ hãi và quyền uy/ Gióp thỏa hiệp (Sách của Gióp). Con người đức tin và cả con người mang tinh thần Descartes đã ngã gục trước sự vô minh khi để quỷ dữ “qua mặt”, gieo rắc nỗi kinh hoàng lên mặt đất. Ý chí của Đấng toàn năng - như một dụ ngôn quyền lực, sắp đặt và toan tính mọi thứ, khiến cho sứ điệp bỗng trở thành vô nghĩa (Sách của Giô-na). Từ trong tàn tro của sự hủy diệt, thật xót xa và cay nghiệt, đức tin buộc lòng phải ăn năn. Đến cả đức tin và nỗi đau cũng bị tha hóa, bị khuất phục bởi nghịch cảnh, còn gì nữa để con người đi qua bóng tối? Sống là lưu đày, là tị nạn: địa ngục không có màn che/ trái đất treo lơ lửng (Sách của Gióp, dẫn lại từ Kinh Thánh). Trương Đăng Dung trưng dụng các bí tích và dụ ngôn tôn giáo (hình thức phản ánh tôn giáo) để chuyển đạt mối quan hệ giữa thực tại và quyền lực (trong hình thức phản ánh nghệ thuật). Thủ pháp này kết nối trở lại truyền thống văn học Âu châu khởi sinh trong mối liên hệ, diễn dịch, chú giải, vay mượn từ Kinh Thánh. Tuy nhiên, có thể nhận ra tinh thần phản tư mạnh mẽ từ Trương Đăng Dung khi ông đặt thần học vào tình thế bị hoài nghi, chất vấn vì chính những thực tại hoàn toàn thiếu vắng đức tin hay sự cứu rỗi. Quyết liệt hơn, quyền lực bị kết án bởi sự toan tính, sắp đặt tráo trở của nó. Gio-na, Gióp và cả Kurdy (dù Kurdy là một tình thế khác của hiện hữu: hình ảnh cậu bé Kurdy nằm úp mặt trên bờ biển trong làn sóng di dân cũng cho thấy bi kịch của con người trên hành trình kiếm tìm một nơi tị nạn) đều là những biểu tượng về thảm cảnh của con người. Bởi thế, tư tưởng của Trương Đăng Dung trong quá trình trưng dụng phản ánh tôn giáo là hướng đến tính phổ quát - một phẩm tính đang thiếu khuyết trong đời sống văn chương Việt Nam. Nhìn trên bình diện toàn tập thơ, chúng ta sẽ liên tiếp va đập vào các tình huống hay hiện tượng có tính phổ quát như thế. Là con tàu không sân ga tượng trưng cho sự cô độc, lãng quên hay ngôi nhà dưới đáy sông thăm thẳm một nỗi buồn không lối thoát; là quán cà phê Piano biểu tượng về sự ra đi, vắng bóng của nghệ thuật; là Kafka biểu tượng của tinh thần bi quan định mệnh; là Kazantzakis với tự do vô hình; là Dostoievski bên bờ thiện ác - giữa vực sâu và lửa; là ngôn ngữ trong một trò chơi đầy bất trắc - phản bội,… Phẩm tính khái quát này được xây cất trên nền tảng của sự đan bện triết học và thần học. Trương Đăng Dung đã nhận ra điểm chung của siêu hình học với thi ca bởi chính khả năng của nó khi tác động đến tinh thần, tư tưởng con người. Triết học và thần học cộng với kinh nghiệm sống đời của chủ thể là ba tụ điểm hình thành một thứ ánh sáng khác như Pierre De Chardin đã nói, phản tư hoặc chất vấn lại thứ ánh sáng duy lí đã mệt mỏi và bất lực. Thế giới không còn bình yên, mọi thứ đang tha hóa và bị cuốn về phía địa ngục. Trong tình thế ấy, thơ Trương Đăng Dung là một lời đề xuất, hãy bước vào thế giới ấy như hành động tuẫn nạn, bởi bóng đêm, cơn ác mộng và trập trùng những lo âu. Kẻ lưu đày có thể đến được với bình minh, ánh sáng hay không, chưa biết, nhưng từ trong đầm lầy tăm tối, hy vọng mỗi người có thể nhận ra, gìn giữ hoặc đánh thức ngọn lửa rực cháy trong tim mình: Thế gian đang ngập tràn nước mắt. Xin cho tôi sức mạnh để có thể nuôi dưỡng đốm lửa cuối ngày trong trái tim này như một niềm tin (Độc thoại).
Những ai đã từng đọc Trương Đăng Dung có quyền đặt ra câu hỏi: Em là nơi anh tị nạn khác gì so với Những kỷ niệm tưởng tượng? Sự thực, nếu chỉ tiếp nối nguồn mạch từ siêu hình học với cái nhìn từ bên trên, thật khó để chỉ ra đâu là bước rẽ làm nên diện mạo Em là nơi anh tị nạn. Nhưng, đọc kỹ, chúng ta sẽ nhận ra, trưng dụng bí tích, dụ ngôn và phán ánh tôn giáo chính là một nét mới của Trương Đăng Dung sau 10 năm. Mặt khác, rất nổi bật, ở tập thơ thứ hai này, Trương Đăng Dung đã có những phản tư chính mình, dần rời bỏ cái nhìn từ bên trên của siêu hình học để nhập vào đời sống với những biểu hiện cụ thể. Trên bàn mổ, Bà và cháu, Một lần nữa, Giấc mơ của con, Những nẻo đường Budapest… là những cú zoom máy để thu vào tâm tưởng ảnh hình cuộc sống ở biên độ thật gần. Một thể xác bất toàn, một tâm hồn bất an là cục diện đầy đau khổ mà kẻ thứ ba (con - một hiện hữu khiếm diện) thấy ăn năn trước cuộc đời, trước những gì mẹ cha đã ban tặng. Có thể nói, trạng thái tam phân này là sáng tạo đáng ngạc nhiên của Trương Đăng Dung. Truyền thống tư duy nhị phân với hai thực thể hồn - xác đã hiện diện khá nhiều trong văn hóa, văn học. Tuy nhiên, hình dung một thực thể khiếm diện ở giữa hồn và xác, hoang mang, đau khổ, tuyệt vọng về chính hai nửa bất toàn - bất an của mình, có lẽ đây là lần đầu tiên ta thấy ở Trương Đăng Dung (theo thiển nghĩ, nó cũng là duy nhất trong văn chương Việt Nam): Con làm kẻ thứ ba/ giữa tâm hồn bất an / và thể xác bất toàn/…/ tâm hồn con mang nặng cuộc đời con/…/ Con chỉ mong được về nhà với mẹ/ cho tâm hồn và thể xác về theo (Trên bàn mổ). Từ cái nhìn thật gần vào bản thể đến cái nhìn tiệm cận với xung quanh, bà và cháu một bóng giữa trời chiều, nỗi lo toan tần tảo đời thường của vợ, giấc mơ của con hay ký ức một thời tuổi trẻ hiện về trên nẻo đường xứ lạ… ta thấy Trương Đăng Dung đã ở giữa cuộc đời. Không những thế, khởi nguyên của những ý tưởng thi ca trong nhiều bài thơ khác cũng được ghi nhận từ các dữ kiện thực hữu: cái chết, bệnh tật, chiến tranh, di dân, những hiện diện phi lí của cuộc sống. Phải nói rằng, đến tập thơ thứ hai này, Trương Đăng Dung đã có ý thức rất cao về chất liệu. Ý thức đó bổ sung hành trình từ “hạ tầng” kết hợp với hành trình từ “thượng tầng” như đã khá quen thuộc trong nhiều thi phẩm của ông. Một vấn đề khác, rất liên quan, có tính xâu chuỗi không thể không nhắc đến ở đây chính là dù vận hành theo ngả lối nào, trên xuống hay dưới lên, Trương Đăng Dung đều đẩy suy tư, cảm xúc đến tầm mức phổ quát. Và như thế, kiểu “Thi sĩ - Triết gia” được định hình trở lại. Đó là định mệnh hơn là phong cách. Bởi lẽ, phong cách có thể thay đổi, nhưng định mệnh thì không. Nó hiện ra trong bất kì trạng thái, tình huống, hành trình nào của thi sĩ, dù khi ông đứng giữa cuộc đời hay khi ông “giũ áo lên đền”. Định mệnh này được nuôi dưỡng bởi tư tưởng nghệ thuật mà Trương Đăng Dung luôn nhất quán đó là vươn tới sự phổ quát. Hãy nhớ lại một nhận định của Nxb Europa khi dịch, xuất bản và giới thiệu thơ ông ở Hungari: “Do đâu mà những bài thơ-thời-gian này, cơn ác mộng hiện đại thể hiện qua bản dịch của Hay Janos, lại quen thuộc với chúng ta đến thế?”. Cái phổ quát làm nên sự quen thuộc ấy vượt qua mọi đường biên của quốc gia, chủng tộc, thể chế, tôn giáo. Đó là sự phổ quát của nhân loại mà từ thơ ca, thông qua thơ ca, Trương Đăng Dung bày tỏ với con người.
Thế giới chìm trong cơn ác mộng và con người không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận tình thế lưu đày. Trong bi kịch ấy, Em là nơi anh tị nạn. Nhưng, hãy đặt trở lại câu hỏi, hay một hoài nghi, khi đã đọc đến dòng chữ cuối cùng, rằng anh có thể tị nạn nơi em (một biểu tượng) không? Đáng tiếc, câu trả lời là không. Bởi lẽ, mọi thứ đều đã tha hóa, đã phôi pha tàn rữa, đã chìm vào tro bụi, lãng quên. Hãy đọc lại một lần nữa bài thơ Hai chuyến tàu để nhận ra hiện thực phía sau những khẩn cầu tị nạn: Rồi một ngày tàu anh kiệt sức/ nằm im trên cánh đồng/ những toa tàu bỏ không/ đầy bụi// Rồi một ngày tàu em đến/ tiếng còi nghe như tiếng côn trùng/ những toa tàu bỏ không/ đầy mối// Thấp thoáng bóng người/ trong cỏ (Hai chuyến tàu).
Chúng ta đã nói về tình thế của tồn tại người trong thơ Trương Đăng Dung. Vậy còn tình thế tồn tại của thi ca thì sao? Đọc lại tập thơ với những lưu ý trong quan niệm về chất thơ, hình tượng, nhịp điệu, nhạc tính hay các phương thức, phương tiện biểu đạt… chúng ta sẽ nhận ra sự tương thích trên bình diện mĩ học. Em là nơi anh tị nạn thể hiện trong sâu thẳm của nó nhịp điệu của tư tưởng (mà nhịp điệu của tư tưởng thì phải nhận diện trong thời gian - thơ Trương Đăng Dung là thơ-thời-gian vì thế), với các biểu tượng - hình tượng đẹp, sang trọng, dẫu buồn thảm hay hoang mang (biểu hiện này có ở rất nhiều bài, xuyên suốt cả hai tập thơ của Trương Đăng Dung). Cấu trúc tam vị (triết học - thần học - cảm quan đời sống) tỏa ra thứ ánh sáng của nghệ thuật đậm dấu ấn Hiện tượng luận (nghĩa là nghệ thuật trong ý hướng tính về nghệ thuật, không đơn thuần là cách hiểu và diễn dịch về thi ca thông thường). Trương Đăng Dung có nhiều bài thơ giàu nhạc tính như Tô Thùy Yên, Độc thoại, Tự bạch… Yếu tố lặp lại trên trục ngữ đoạn duy trì nhịp độ - tiết điệu, làm nên phẩm tính của thơ, thay vì những kết hợp kiểu văn xuôi (có thể nhìn thấy xuyên suốt). Một điểm sáng thuộc về ngôn ngữ thi ca thiết tưởng cũng nên nêu ra như một minh giải đó là Trương Đăng Dung “lựa chọn” (R. Jakovson) một cách kỹ lưỡng, giản mà tinh (nó gần với tâm thế của chủ nghĩa tối giản đang khá phổ biến hiện nay: Có phải đã đến lúc lửa cũng cần nơi ẩn náu? (Độc thoại). Lưu ý, tinh-giản chứ không đơn giản.
Trở lên, thi ca mà bi quan đến như vậy, khó hiểu đến như vậy thì nó mang lại điều gì cho con người? Chẳng phải đời sống này đã dư thừa khổ đau, bi kịch, thiếu vắng niềm thông tri kết nối hay sao? Không! Phía sau những âu lo, hoang mang, hoài nghi hay tuyệt vọng, dưới định mệnh tàn tro, Em là nơi anh tị nạn gửi gắm ý niệm hướng về ánh sáng. Thơ ca (mà rộng hơn là nghệ thuật) ngay trong cơn bi kịch của chính mình vẫn gắng gượng gõ nhịp vào trái tim con người, đánh thức đốm lửa trong lồng ngực, thắp lên niềm hy vọng ở tương lai.
Hà Nội, tháng 8/2020
N.T.T
(TCSH380/10-2020)
---------------------
* Tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng giành giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011 và thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ từ công chúng cũng như giới nghiên cứu, phê bình. Sau đó, tác phẩm được Nxb Europa dịch, xuất bản và giới thiệu ở Hungari.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)