Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.
Con đường khổ, mịt mù gió cát mà năm xưa Đường Tam Tạng cùng các đệ tử vượt qua để tới Tây Trúc thỉnh kinh đã trở thành huyền thoại được người đời sau nhắc tới với niềm kính phục. Cuốn sách nhỏ Dõi bước Huyền Trang do các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch và biên soạn có thể xem như nhật ký hành trình của ngài.
Cuốn sách bắt đầu với việc dõi theo những bước chân của Đường Huyền Trang bắt đầu từ Trường An, nơi độc giả có thể hiểu được gia thế, tiểu sử cũng như lý do khiến ngài bước chân vào cuộc du hành.
Từ nhỏ, Pháp sư Huyền Trang (tên tục Trần Huy) đã nổi danh là thông minh đĩnh ngộ, năm 13 tuổi ngài đã xuất gia, học kinh Niết Bàn quên ăn bỏ ngủ. Năm 20 tuổi, kinh sách tại Ích Châu ngài đều đã xem qua, chỗ học kinh luận đã cùng, ngài vào kinh thành gặp gỡ các vị giảng sư để tham hỏi những điểm còn nghi vấn. Tuy nhiên có nhiều điểm giảng giải của các giảng sư mâu thuẫn nhau khiến cho Huyền Trang nảy sinh ý định qua Ấn Độ để tự mình tìm hiểu. Thoạt đầu ý định đó chưa được chấp nhận, nhưng ngài vẫn giữ vững chí nguyện, "rèn luyện sự kiên gan bền chí và sức chịu đựng, chuẩn bị cho chuyến Tây du" bắt đầu từ năm 629.
Lúc còn trên đất Trung Quốc thì đoàn của ngài bị quan quân vâng lệnh vua truy đuổi, ban ngày lẩn trốn, đêm mới dám đi. Ra khỏi Ngọc Môn Quan thì đi vào sa mạc Gobi "nhìn chỉ thấy mịt mù trời và cát, trên không bóng chim bay, dưới không bóng thú chạy", suốt bốn đêm năm ngày ngài không có lấy một giọt nước, "cổ họng khô bỏng gần như sắp chết, nằm quỵ trên sa mạc". Đệ tử đã rời bỏ ngài từ lâu, suốt 800 dặm "chỉ có mình ngài và con ngựa gầy nương nhau", "những nguy nan không bút nào tả hết" (trích sách). Nhưng đây chỉ mới là chặng hiểm nghèo thứ nhất.
Cứ như thế, ngài trải qua năm chặng hành trình gian khổ với biết bao kiếp nạn, đồng thời cũng gặp không ít kỳ tích, gồm: Trong lãnh thổ Trung Quốc (Từ Trường An đến Ngọc Môn Quan), Vùng Tân Cương: từ sa mạc Gobi đến dãy Thiên Sơn, Vùng Trung Á: phía Tây Thiên Sơn đến Kế Tân, Ấn Độ và Đường trở về.
Bên cạnh đó, tập sách này cũng ghi chép tỉ mỉ những cuộc gặp gỡ, đàm đạo giữa Pháp sư Huyền Trang cùng các vị vua, các cao tăng có duyên gặp gỡ. Những người đã khen ngợi ngài, những người đã chất vấn ngài. Ngoài ra, đây đó trong tập sách, người đọc có thể rơi lệ ngậm ngùi trước những sự tích Phật giáo, chẳng hạn sự tích Vương tử Ma-ha-tát-đỏa xả thân cứu bảy con cọp bị đói, cho đến nay "đất đai trong vùng vẫn đỏ và cây cỏ đều có sắc đỏ" như thấm máu của ngài.
Theo Bạch Tiên - vnexpress
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng