MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802 - 1804), trong Thanh Hiên thi tập(1).
Ảnh: internet
Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất, và kỳ lạ bậc nhất của Tố Như, khi ông chưa tới tuổi “tam thập nhi lập.” Hay và kỳ lạ, song xưa nay nó mới chỉ được điểm qua, chưa hề được phân tích bình giải một cách thấu đáo. (Trong khi, bài Độc Tiểu Thanh ký xếp liền sau đó lại được khai thác khá kỹ trong hàng chục bài viết - ở các bậc phổ thông, đại học và nhiều diễn đàn văn chương). Có lẽ, bởi tính chất kỳ lạ và trừu tượng đến khó hiểu của nó?
Hình ảnh con bướm chết khô trong trang sách vẫn được coi là biểu tượng của tình yêu sách vở, lòng đam mê văn chương của Nguyễn Du. Hiểu thế không có gì sai. Nhưng vì sao lại là con bướm chết khô? Con mọt sách và lửa đom đóm có liên can gì ở đây? Có điều gì khiến hồn phải tàn, rồi phải không lệ khóc cho văn chương? Cái duyên lưu lại với sách thực ra là gì?... Hàng loạt ký hiệu nghệ thuật quanh hình ảnh con bướm chết khô, trong hệ thống cảm xúc - tư tưởng của Nguyễn Du ở những bài thơ cùng loại, đã giúp chúng ta hiểu thêm được điều gì trong chiều sâu tâm hồn người nghệ sĩ lớn, cùng tuyên ngôn của ông về giá trị cuộc đời, về văn chương nghệ thuật...? Xem ra, tất cả những điều đó vẫn còn nhập nhoạng như ta nhìn sự thật bằng lửa đom đóm.
Điệp tử thư trung
Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương,
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng.
Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.
Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng,
Huỳnh hoả nan hôi cẩm tú trường.
Văn đạo dã ưng cam nhất tử,
Dâm thư do thắng vị hoa mang.
蝶死書中
芸窗曾幾染書香,
謝卻風流未是狂。
薄命有緣留簡籍,
殘魂無淚哭文章。
蠹魚易醒繁華夢,
螢火難灰錦繡腸。
聞道也應甘一死,
淫書猶勝為花忙。
Dịch nghĩa:
Con bướm chết trong sách
Thư phòng bao lâu nay nhiễm hương thơm của sách,
Từ bỏ vị phong lưu không thể cho là dại.
Mệnh tuy bạc, nhưng cũng có duyên lưu lại với sách,
Hồn tàn không có nước mắt khóc văn chương.
Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn hoa,
Lửa đom đóm khó đốt cháy được tấm lòng gấm vóc.
Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam,
Ham mê sách còn hơn mải miết đắm đuối vì hoa.
Nhà thơ Vương Trọng dịch thơ:
Lâu rồi được sách ướp hương
Phong lưu từ bỏ chẳng cuồng dại đâu
Còn duyên, với sách lưu sau
Hồn tàn, không lệ khóc sầu văn chương
Mọt kêu dễ tỉnh giấc vàng
Lòng vàng, lửa đóm đố làm sao thiêu?
Được nghe đạo, chết cũng liều
Ham mê sách vở hơn nhiều mê hoa.
Chữ nghĩa thì đã bày ra cả đó rồi, dường không có chỗ nào uẩn khúc để từ Hán tự sang giải nghĩa tiếng Việt làm người đọc phải băn khoăn tranh luận nhiều - như bài Độc Tiểu Thanh ký. Vấn đề tưởng như chỉ là giải mã các hình ảnh vừa có thực, lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng, có tính biểu tượng. Có nhiều con đường để khám phá bài thơ về các mặt như: Nội dung - Tư tưởng - Hình thức, và có một cách khá mới mẻ là phương pháp phê bình tâm lý (psychocritique) của Charles Mauron, cùng các khái niệm của phân tâm học như: “ám ảnh”, “mạng lưới”, nhất là “huyễn tưởng dai dẳng” - hay là HUYỀN THOẠI CÁ NHÂN, “là một ám ảnh luôn luôn ở phía sau tư duy của người sáng tạo”(2). Phân tích bài thơ này, liên kết với một số bài thơ, câu thơ khác và chồng văn bản giữa chúng sẽ giúp cho việc học tập nghiên cứu thơ văn Nguyễn Du trong nhà trường thêm thuận lợi, và sau đó góp phần làm sáng tỏ “Huyền thoại cá nhân” của Nguyễn Du trên hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Trong bài thơ có hai hình ảnh trung tâm: Bướm và Sách; các hình ảnh khác sẽ là vệ tinh xoay quanh thi đề chính: Con bướm chết giữa trang sách.
Văn thơ cổ có nhiều điển tích giấc mơ dùng làm thi liệu, trong đó có liên quan tới điển tích Trang Chu hóa bướm: Hồ điệp, Giấc bướm, Giấc hồ (Khúc đâu đầm ấm dương hòa/ Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Truyện Kiều; Giấc hồ nửa gối mơ màng/ Chiền đâu đã lọt tiếng chuông mái tường. Hoa tiên). Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ, khi chợt tỉnh dậy lại thấy mình là Trang Chu. “Không biết là có phải Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm hay là bướm nằm mộng thấy mình biến thành Trang Chu” (Nam hoa kinh). Sau này một nhà văn của Tự lực văn đoàn đã lấy cảm hứng “Hồn bướm mơ tiên” để viết thành cả một cuốn tiểu thuyết. Hình ảnh Giấc bướm có “từ trường” giàu khả năng liên kết với các hình ảnh như trướng huỳnh (màn có ánh sáng đom đóm), song huỳnh (cửa sổ có ánh sáng đom đóm) dùng chỉ phòng học, rộng hơn là việc học tập (Nhặt thưa trăng rọi đầu cành/ Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. Kiều; Lưu liên khi lại huỳnh song/ Gương nga đã gác non sông nửa vùng. Hoa tiên). Nằm trong hệ thống này còn có Vân song (thư phòng), Thư trai (phòng văn), Song hồ (cửa sổ dán giấy), Song sa (cửa sổ treo rèm bằng sa), v.v. Theo các nhà khoa học Pháp làm Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, đối với phần đông nhân loại, Bướm tượng trưng cho sự hồi sinh, riêng trong tâm thức phương Đông nó còn mang ý nghĩa mùa thu, sự trường thọ, còn trong hệ biểu tượng Kitô giáo nó tượng trưng cho linh hồn đã trút bỏ được cái vỏ xác thịt của mình; phân tâm học hiện đại cũng nhìn thấy ở con bướm một biểu tượng về sự tái sinh.(3)
Còn về Sách, trong ba tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã có hàng chục lần nói tới Sách và đọc sách, lần nào cũng đầy cảm xúc, như nguồn nuôi dưỡng chủ yếu của tâm hồn ông, như người bạn thân thiết, nguồn an ủi lúc cô đơn bần hàn, thậm chí như một thứ định mệnh gắn với đời mình. Sách, với Nguyễn Du, có sự giao cảm giữa “người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa.” (Mộng Liên đường, Bài tựa Đoạn trường tân thanh)(4). Sách, vốn là biểu tượng của tri thức và sự minh triết, còn là biểu tượng của vũ trụ, với cuốn Sách Đời, Cây Đời trong sách Khải huyền (của Kinh thánh) mang những thông điệp của Chúa Trời.(5) Trong sách Khải huyền, Thiên sứ tay cầm cuốn sách nhỏ đưa cho người đời ăn, ngọt như mật nhưng rồi bụng lại đắng, bởi vì đọc sách rồi cần phải “nói lời tiên tri về nhiều dân tộc, nhiều nước, nhiều thứ tiếng nữa…”(6) - những lời “tiên tri” trĩu nặng lo âu và tình thương xót, khiến ta chợt nhớ đến hình ảnh Nhà Tiên tri của thi hào Nga A. Puskin; và Nguyễn Du của chúng ta, ở cùng thời đại ấy, khi lo mãi chuyện nhân thế nghìn năm trước khi chết (Thiên tuế trường ưu vị tử tiền. Mộ xuân mạn hứng), phải chăng cũng xuất phát từ sự gặp gỡ vô tình giữa hai trái tim nghệ sĩ vĩ đại: Đi khắp năm châu bốn bể gần xa/ Đem lời nói đốt cháy lòng thiên hạ (Nhà Tiên tri - Thúy Toàn dịch).(7)
Đây là bài thơ mượn hình ảnh con bướm đã chết để nói về mình, về đời, không phải là thơ vịnh con bướm (mà truyền thống thơ cổ Việt Nam thì hay ngâm vịnh, cái gì cũng có thể vịnh được: vịnh cái chổi, vịnh cái gương, cái lược…); đúng hơn là nhân có con bướm chết khô tìm thấy trong trang sách cũ mà chợt nảy sinh cảm hứng, rồi suy ngẫm. Nhưng nói với mình, nói về mình, thông qua sự quan sát con bướm chết mà tựa như đối thoại trực tiếp với nó… Bài thơ đậm màu siêu thực, kỳ ảo, liêu trai, thực mộng lẫn lộn, song có lẽ chỉ bằng cách thức này nhà thơ mới bộc bạch được đến tận cùng điều muốn gửi gắm. Có thể nói, bài thơ Điệp tử thư trung là minh chứng hùng hồn cho một quy luật quan trọng của Mỹ học: “Sự cho vay, sự du nhập, sự nhập cảm của tâm hồn vào các hình thức không hồn chính là điều chủ yếu được bàn đến trong mỹ học.”(8) Và nếu theo Hêghen: “Từ lâu, nhiệm vụ quan trọng nhất của nghệ thuật vẫn là tìm những tình huống thú vị. Tức là những tình huống nào cho phép ta bộc lộ những hứng thú quan trọng và sâu sắc, cũng như cái nội dung chân thực của tâm hồn”(9) thì quả là Nguyễn Du đã tìm được một “tình huống thú vị”, và độc đáo nữa: con bướm chết trong trang sách. (Có nhà nghiên cứu cho rằng: chữ điệp với nghĩa con bướm có thể là một dị bản; nội dung bài thơ cho thấy chữ điệp ở đây rất có thể là điệp trong trùng điệp, tức nhan đề bài thơ nên được hiểu là chết nhiều lần trong sách. (10) Theo tôi, đó là một suy diễn khá chủ quan, và nếu quả thực như thế, bài thơ sẽ nghèo đi rất nhiều về hình tượng và cảm xúc, còn bài thơ có thể là lẫn của một tác giả nào đó chứ không phải là Nguyễn Du!)
Chúng ta hãy đi vào câu chữ cụ thể.
Câu thừa đề:
Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương - Thư phòng bao lâu nay nhiễm hương thơm của sách.
Căn phòng của Nguyễn Du, như không ít lần ông miêu tả trong thơ trữ tình, rõ ràng là không sang trọng gì: Trước cửa nhà ẩn dật toàn là núi xanh. Cạnh gối, có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật… Suốt ngày, bếp không đỏ lửa (Xử sĩ môn tiền thanh giả san/ Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt/ /Táo đầu chung nhật vô yên hoả. Tạp ngâm 2), nhưng lại là nơi trong sạch bụi bặm không thể lẫn vào (Bất dung trần cấu tạp thanh hư), và cũng là nơi lưu giữ “hương thơm” của Sách, được “nhiễm thư hương.” Không phải là hương thơm được tẩm ướp vào sách, đó là hương thơm toát ra từ một thứ văn chương có “Tình là gốc, lời là cảnh, thanh là hoa, nghĩa là quả: cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa” (Bạch Cư Dị).(11) Vẻ đẹp của Đạo lý thông qua ngôn từ đó đem lại ý nghĩa lớn lao cho cuộc sống nhiều đau thương buồn khổ của Nguyễn Du. Cả đời ông đi tìm thứ văn chương ấy, chắt chiu, mài bút, khổ luyện, và đã trở thành một trong “An Nam ngũ tuyệt” của văn đàn một thời.
Câu phá đề:
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng. Từ bỏ vị phong lưu không thể cho là dại.
Hai chữ Phong lưu (風流) của nguyên tác, theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, trong văn cảnh này là: thói riêng, tinh thần riêng (của con bướm) giống như ngọn gió hay lang thang đây đó, như nước chảy trôi dạt không phương hướng (lưu phong dư vận). Phong lưu trong văn cảnh này còn có ngụ ý là cuộc sống giàu có, địa vị xã hội cao. Khác với các danh từ: thần thái, phong vận, phong tư, phong thái... (Còn chữ Phong 豐, tức dáng sắc đẹp tốt - theo ĐDA, nếu kết hợp với Nhã 雅 trong Kinh Thi gọi là Phong nhã - người ta gọi những việc văn chương là Phong nhã; còn kết hợp Phong 豐 với Nhân 人 tức là Thi nhân).
Như vậy, câu thứ hai, kết hợp với câu mở đầu cần hiểu: Việc buộc phải từ bỏ thói hay đi rong chơi nhởn nhơ (như con bướm) để sống trong cái không gian đẫm “thư hương” cao quý kia đâu phải là dại, theo cách luận Dại - Khôn của người đời, tựa như Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ - Người khôn người kiếm chỗ lao xao! Hơn nữa, sau nhiều năm tháng phiêu bạt giang hồ đầu sông cuối bãi, thi nhân cũng cần có lúc dừng lại, không chỉ để nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, mà để lắng lại, để sàng lọc lại biết bao tích lũy của tâm hồn - trong đó có không ít những câu hát thôn dã giúp ta hiểu được tiếng nói của kẻ trồng gai trồng dâu và thỉnh thoảng nghe tiếng người khóc như buổi chiến tranh ngoài đồng nội. (Thôn ca sơ học tang ma ngữ/ Dã khốc thời văn chiến phạt thanh. Thanh minh ngẫu hứng). Đó cũng là lúc, hết nghiệp chướng mới thấy tấm lòng xưa nhẹ nhõm: Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện rong ruổi, Đường danh lợi làm lụy đến sự khóc cười. Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn cứ đẹp (Anh hùng tâm sự hoang trì sính/ Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần/ Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo. Xuân tiêu lữ thứ)…
Hai câu thực:
Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch - Tàn hồn vô lệ khốc văn chương (Mệnh tuy bạc, nhưng cũng có duyên lưu lại với sách. Hồn tàn không có nước mắt mà khóc văn chương, hồn tàn khóc văn chương không nước mắt).
Câu đầu thì cũng khá dễ hiểu: Con bướm tuy yểu mệnh, bạc mệnh nhưng lại được lưu lại như một tiêu bản giữa các trang sách, đúng là cái “hữu duyên” - như chính nhà thơ đối với văn chương lâu nay mà ông coi là Văn Đạo. Mỗi khi Giật mình mình lại thương mình xót xa (Kiều), Biết cùng ai bày tỏ niềm cảm xúc từ trong đáy lòng (Trung tình vô hạn bằng thùy tố. Hoàng Hạc lâu), ông đã có văn chương làm bầu bạn, làm nơi giải thoát. Bởi lẽ chưa từng có chuyện văn chương gây nghiệp chướng, miễn là không để cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch (Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng/ Bất dung trần cấu tạp thanh hư. Ngọa bệnh). Cái hữu duyên này đối nghịch với mọi điều sinh nghiệt chướng cho ông mà ông gặp không ít trên đường đời. Con bướm thực may mắn khi được lưu cùng sách - cũng có nghĩa lưu cùng những giá trị bất hủ nằm trong sách. Nhưng câu thứ hai của Thực mới là “hóc”, có thể nói “hóc” vào bậc nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du: Hồn tàn vì lẽ gì? Tại sao lại không có nước mắt để mà khóc văn chương nữa? Nước mắt của ai? Cái gì tạo ra sự khác biệt trong cái Khốc (khóc thương thống thiết thành tiếng) ở đây với cái Khấp (khóc chỉ có nước mắt mà không ra tiếng) ở Độc Tiểu Thanh ký? Và ở đây có thể có hai cách hiểu: a. Theo truyền thống, phụ thuộc vào những người đã dịch nghĩa và dịch thơ: Không có nước mắt để khóc văn chương (Hồn tàn không lệ khóc văn chương), b. Khóc cho văn chương mà không có nước mắt.
Chúng tôi mạn phép phân tích theo cả hai cách hiểu, từ hai cách dịch nghĩa.
a. Chúng ta hãy bình tĩnh len vào tâm sự của nhà thơ để dần hiểu ra ý tứ của ông. Trước hết, ta cần nhớ lại quan niệm của Mauron đã nói ở trên: sự “ám ảnh luôn luôn ở phía sau tư duy của người sáng tạo.” Tạm thời “nhập thân” vào con bướm chết, Nguyễn Du rút ra một điều giản dị: khi cái hồn của nó tàn phai, rời thể xác bay đi, mọi vẻ đẹp cuộc sống sẽ trở nên trống rỗng vô nghĩa đối với nó. Mà hồn đã tàn, thì không còn nước mắt nữa là điều hiển nhiên, nhất là nước mắt để khóc cho một thứ chông chênh khó nắm bắt, khó định giá dưới sự thẩm định của đời thường, như là văn chương! Điều ám ảnh lớn của Nguyễn Du bất chợt trở lại trước cái chết của con bướm vô tư lự, khiến ông phải một lần nữa tự vấn về ý nghĩa đời mình, về con đường văn nghiệp khổ ải mà ông đã lựa chọn, như chúng đã bao lần dày vò ông: Trăm nỗi u buồn chưa một lần được giải thoát (Bách chủng u hoài vị nhất sư. Bát muộn) - Tóc bạc làm tiêu ma chí khí của kẻ sĩ nghèo (Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí. Tặng Thực Đình) - Sống chưa nên danh vọng gì người đã suy yếu (Sinh vị thành danh thân dĩ suy. Tự thán II) - Qua nhiều năm biết cái già đã đến với mình (Niên thâm cánh giác lão tùy thân. U cư II) - Một đời chuyên về từ phú, biết là vô ích, Sách đàn đầy giá, chỉ mình làm ngu mình (Nhất sinh từ phú tri vô ích, Mãn giá cầm thư đồ tự ngu. Mạn hứng) - Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta? Đâu ngờ phải đói rét để người thương (Văn tự hà tằng vi ngã dụng/ Cơ hàn bất giác thụ nhân liên. Khất thực) - Người có tài thường bị văn chương ghét ghen (Cao tài mỗi bị văn chương đố. Ninh Minh giang chu hành). Dễ hiểu vì sao có lần Nguyễn Du thoáng mơ ước được như Ông già thôn quê ngồi trong nhà trông thanh thản an nhàn quá. Được như thế, chắc chỉ vì bình sinh không đọc sách (Tọa gia thôn tẩu đa nhàn sự/ Chỉ vị bình sinh bất độc thư. Lạng Sơn đạo trung)… Những bức tranh nhuốm màu u ám bi quan lướt qua tâm trí ông trước một sinh mệnh bé nhỏ đã rời xa dương thế. Nỗi buồn về cuộc đời vô cảm thực dụng đang tràn lan ngoài kia làm ông có lúc trách oan con bướm! Nếu tất cả mọi người sống nhởn nhơ vô tư lự như con bướm kia, thì chẳng đợi khi hồn tàn, cũng đâu có giọt lệ nào khóc cho văn chương, cho những khổ đau bất hạnh mà đời trông mong sự đồng cảm, cứu giúp! Điều ấy chỉ có ở người nghệ sĩ thực sự mà thôi! Nhưng tâm hồn nhân hậu của người nghệ sĩ đã dành cho con bướm một đặc ân mà nó không ngờ: mi mệnh bạc, chỉ còn cái xác khô thôi, nhưng lại có duyên lưu lại với sách vở!
b. Nhưng, hiểu theo cách thứ hai, theo chúng tôi sẽ phù hợp hơn, với ngữ pháp Hán văn cổ và cách tiểu đối của các vế trong hai câu Thực: Bạc mệnh & Tàn hồn, Hữu duyên lưu giản tịch & Vô lệ khốc văn chương. Khóc (khốc) mà lại không thể ra nước mắt, đó mới là cái khóc đau đớn, cái khóc bi kịch. Hồn tàn rồi, dù con bướm may mắn vẫn còn lưu thể xác với sách, nó khóc cho văn chương trong tình thế bất lực, khóc vô lệ, bởi cái tinh khí của đời đã thoát khỏi nó kia mới chính là thứ nó cần để giao lưu hòa nhập với tinh anh của văn chương! Cái khốc này chính là của Nguyễn Du dành cho văn chương, đúng hơn là cho những khát vọng ông chưa thực hiện được cho văn chương cho đến giây phút ấy! Đó cũng là một điều ám ảnh dai dẳng đối với một người thấy mình đầu bạc từ khi còn trẻ tuổi!
Từ đó, nhà thơ đi tới hai câu luận:
Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng/ Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường. (Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn hoa, Lửa đom đóm khó đốt cháy được tấm lòng gấm vóc).
Giấc mộng phồn hoa của Cuộc đời trăm năm thương thay chỉ là chớp mắt (Bách tuế vi nhân bi thuấn tức. Mạn hứng), vì thế con mọt gặm gỗ nhân may mắn được gặm sách cũng có thể dễ tỉnh phồn hoa mộng, cái phồn hoa của lợi lộc danh vọng tạo ra những ông phỗng đá hay phải dẫm đạp lên nhau trong Cõi người ta, của những Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm (Kiều), khiến nhà thơ không chỉ một lần tự nhủ: Sao bằng cứ tỉnh để xem việc đời, như cánh bèo trôi giạt rất đáng thương (Hà tự thanh tinh khan thế sự/ Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai. Lưu Linh mộ). Bởi Xưa nay ai là người có thể phá bỏ cuộc mê này (Kim cổ thùy năng phá thử mê. Phản chiêu hồn), nếu không phải là người nghệ sĩ ưu thời mẫn thế?
Người dám sống kiểu Ma đưa lối quỷ dẫn đường, lại tìm những lối đoạn trường mà đi (Kiều), cũng là người lúc cùng đường vẫn được trăng đến thăm (Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến). Nói Tấm lòng gấm vóc (cẩm tú trường) tức là nói tới tài văn chương (tú khẩu cẩm tâm), và là một cách kiêu hãnh tự xác định giá trị bản thân của người hiểu hơn ai hết làm thế nào để đạt tới “Nhất thế tài hoa” (Nguyễn Hành) của người sống trong môi trường nhiễm hương thơm của Sách từ nhỏ không lúc nào rời chí hướng của mình - kể cả khi thân phận tựa Ngọn cỏ bồng lìa gốc trước luồng gió tây thổi mạnh, không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi đâu (Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu lưu hà xứ quy). Tự xác định được cái lẽ sống để “dĩ bất biến ứng vạn biến” đó trong mọi cảnh ngộ dù não lòng đến đâu, nhà thơ nghệ sĩ của chúng ta đã có được tấm lòng gấm vóc (cẩm tú trường) mà lửa đom đóm khó đốt cháy được! Lửa đom đóm ở đây có thể liên tưởng tới sự phù vân của danh lợi và những ước vọng tầm thường đôi khi cũng lụy tới nhà thơ.
Từ việc Luận về Thời & Giá trị của cá nhân, tác giả đi tới Kết:
Văn đạo dã ưng cam nhất tử, Dâm thư do thắng vị hoa mang. (Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam, Ham mê sách còn hơn mải miết đắm đuối vì hoa.)
Mượn chữ “Văn đạo” trong sách Luận ngữ của Khổng tử (Sáng được nghe giảng đạo lý, chiều tối chết cũng hả), phù hợp với vòng đời ngắn ngủi của con bướm trong văn cảnh này, nhà thơ khẳng định cái giá trị của văn chương mà ông theo đuổi: văn chương Nghìn thuở nơi chín suối vẫn có mùi hương (Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương. Âu Dương Văn Trung Công mộ), trong cái cuộc vui buồn trăm năm bao giờ mới hết? Sách vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa (Bách niên ai lạc hà thời liễu/ Tứ bích đồ thư bất yếm đa. Tạp ngâm 1). Và ông trầm ngâm triết lý thông qua con bướm chết: giờ đây, mi đã nằm trong Sách, đã được hưởng cái Đẹp trong Sách, vì vậy chết cũng cam; và việc ham mê sách của mi còn đáng giá hơn nhiều lần chuyện đắm đuối vì hoa khi sống - đó là một cách diễn đạt cực tả nhằm nêu bật và khắc vào lòng người đọc ấn tượng sâu sắc cái ý nghĩa của sự sống với Giá trị văn chương mà Nguyễn Du tôn thờ.
Chúng ta thử thao tác chồng văn bản bài thơ này với bài thơ Độc Tiểu Thanh ký: Nàng Tiểu Thanh được Nguyễn Du “liên tài” trước hết chính bởi tài hoa của nàng tạo nên thần thái riêng biệt đáng kính trọng. Nhưng điều trớ trêu đáng đau lòng là vẻ đẹp son phấn thì được người chồng nâng niu, quý mến cho đến cả sau khi chết; còn văn chương - biểu hiện của phẩm chất cao quý là tài năng, trí tuệ, tình cảm thì lại chịu phận hẩm hiu, bị rẻ rúng, phải nhờ vào tờ giấy dùng để gói quà may còn sót lại mà đến được với đời, xét ra còn thua cả con bướm chết khô ép trong sách: Trước cửa sổ, ta chỉ viếng một tờ giấy thôi… Nhan sắc có thần thái nên được thương tiếc cả sau khi chết. Văn chương mệnh hẩm nên phải nhờ vào phần còn sót lại (Độc điếu song tiền nhất chỉ thư// Chi phấn hữu thần liên tử hậu/ Văn chương vô mệnh lụy phần dư). Nguyễn Du liên hệ điều này với nghịch cảnh trớ trêu của mình và thốt lời than thở: Cổ kim hận sự thiên nan vấn/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư/ Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Cái án phong lưu khách tự mang (phong vận kỳ oan ngã tự cư) suốt đời ấy cũng đồng nghĩa với có duyên lưu lại với sách, với lòng ham mê sách, không bị u mê đắm đuối vì hoa - biểu trưng cho sự phù du của danh lợi, để có thể miệt mài đắm đuối với thứ văn chương có giá trị thiên cổ như thi bá Đỗ Phủ (Thiên cổ văn chương thiên cổ sư. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 1).
Toàn bộ bài thơ Điệp tử thư trung với hệ thống thi liệu và câu chữ đối lập, đã tạo nên sự tương phản giữa sự lạnh lẽo, bụi bậm, cô quạnh, đơn độc (có tiếng mọt kêu đục gỗ) với sự nồng ấm của tư tưởng, của khát vọng ẩn giấu trong sự lựa chọn & sắp xếp thi liệu, sự tương phản đối lập giữa Cái chết và Sự sống, Sự trường tồn vĩnh cửu và cái Hữu hạn mong manh… Và điều đó “tạo ra hai cảm xúc đối lập”, “các mâu thuẫn xúc động” tác động sâu sắc tới nhiều thế hệ độc giả, theo quy luật của tâm lý học nghệ thuật, như nhà khoa học nghiên cứu về nghệ thuật người Nga L.X. Vưgôtxki đã viết: “Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào - dù một bài thơ ngụ ngôn, một truyện ngắn hay vở bi kịch - đều chứa đựng trong mình một mâu thuẫn xúc động, đều dấy lên những cảm xúc đối lập nhau… và với điều này chúng ta đang tiến sát tới cái khái niệm Catacxit mà Arixtốt đã dùng làm cơ sở để giải thích bi kịch và đã nhiều lần nhắc tới khi nói về các loại hình nghệ thuật khác… nó thực hiện, “thông qua sự thương cảm và sợ hãi, việc thanh lọc những xúc động tương tự.”(12) Sự “thanh lọc” cảm xúc này cũng là một sức mạnh nghệ thuật lớn lao trong toàn bộ tác phẩm văn chương của Nguyễn Du nói chung, và của bài thơ Điệp tử thư trung nói riêng.
M.A.N.A.T
(TCSH366/08-2019)
.............................................................
1. Thơ trích trong bài lấy từ: Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Lê Thước Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch. Nxb. Văn học 2012.
2. Charles Mauron: “Huyền thoại cá nhân thể hiện những quá trình tâm lý sâu xa, nó tiết lộ một chức năng tưởng tượng có liên quan tới thời gian mà người sáng tạo đã sống qua.” - Dẫn theo: Liễu Trương. Phân tâm học và Phê bình văn học, Nxb. Phụ nữ 2011, tr.149.
3. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Nhiều người dịch, Nxb. Đà Nẵng, in lần thứ ba, 2015, tr.113.
4. Nguyễn Du. Về tác giả và tác phẩm. Trịnh Bá Đĩnh & Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn, giới thiệu. Nxb. Giáo dục 1999, tr.169.
5. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Sđd,tr.791.
6. Kinh Thánh, Bản truyền thống hiệu đính, Liên hiệp Thánh Kinh Hội ấn hành, Nxb. Tôn giáo 2011 (Sách Khải huyền 10:10, 11).
7. Alexandr Puskin. Tuyển tập tác phẩm. Thơ, Trường ca. Nxb. Văn học & TT văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây HN 1999.
8. L.X. Vưgôtxki. Tâm lý học nghệ thuật. Nxb. KHXH &Trường viết văn Nguyễn Du, HN 1995, tr.385.
9. Hêghen. Mỹ học. Phan ngọc giới thiệu và dịch. (Tập I) Nxb. Văn học HN.1999, tr.18.
10. Lê Quế. So sánh dị bản Truyện Kiều, Nxb. Hội Nhà văn, 2006. Tr.29.
11. Dẫn theo: Khâu Chấn Thanh. Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Mai Xuân Hải dịch, Nxb. Văn học 2001, tr. (412).
12. L.X. Vưgôtxki. Tâm lý học nghệ thuật. Sđd, tr.339.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...