"Từ Dụ thái hậu": Lịch sử được viết lại bằng tư tưởng của nhà văn

09:43 26/04/2019

Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.

Bông hoa thánh khiết chốn hậu cung

Viết về thời nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhưng nhân vật chính và xuyên suốt tác phẩm chính là bà Từ Dụ. Là con dâu của vua Minh Mạng, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức, Từ Dụ đã dùng nhân cách, trí tuệ của mình để có được địa vị trong hoàng cung cũng như trong lòng bậc đế vương và dân chúng. "Từ Dụ" có nghĩa là vẻ đẹp, là nhân ái, tốt lành. Cuốn tiểu thuyết đã lí giải sâu sắc ý nghĩa ấy từ chính thân phận, cuộc đời nhân vật chính.

Cô thiếu nữ 13 tuổi Phạm Thị Hằng theo cha là Phạm Đăng Hưng từ vùng đất phương Nam trù phú về kinh đô, chịu bao thăng trầm dâu bể rồi trở thành người đứng đầu hậu cung nhà Nguyễn, là Từ Dụ thái hậu sau này. Cô tiểu thư họ Phạm xinh đẹp, thông minh và nhân hậu đã chứng kiến rất nhiều phận đời sau bức tường thành cung cấm, những bi kịch chốn cung đình, và rồi bản thân nàng cũng trở thành một thân phận điển hình. Những mưu mô thủ đoạn tàn độc đầy rẫy ở hậu cung đôi lúc làm khuynh đảo cả triều chính, gây ra những cái chết tức tưởi, những án oan dậy trời tiếng nhơ khó rửa, đến mức hậu thế phải tốn nhiều bút mực tranh luận.

Mối tình của Phạm Thị Hằng và hoàng tử Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này) là một bức tranh trong trẻo, lãng mạn, bừng sáng giữa chốn cung đình đầy mưu ma chước quỷ ấy. Bên cạnh đó còn có bóng dáng thầm lặng mà trung thành trước sau như một của Trương Đăng Quế, đệ nhất công thần nhà Nguyễn, người mang mối ẩn tình với Hằng bao năm (mối tình này đã trở thành một “đại nghi án” gây tranh cãi của triều Nguyễn). Cuộc chiến cam go bảo vệ tình yêu, danh phận, bênh vực giúp đỡ người ngay và lẽ phải ở nơi cao sang quyền quý thực sự gay cấn và đầy hiểm nguy, nhất là khi thiện ác tranh tối tranh sáng khôn lường.

Nhà văn Hoàng Quốc Hải nhận định: “Chỉ thông qua các chuyện trong hậu cung, chính trường nhà Nguyễn qua ba triều vua hiện lên một cách sinh động dưới ngòi bút sắc sảo của nữ nhà văn Trần Thùy Mai. Mặt khác, văn hóa phong tục được gói trong các lễ nghi giao tiếp, trong các sinh hoạt cung đình và dân dã được mô tả rất tinh tế, rất Huế. Từ Dụ thái hậu là một cuốn tiểu thuyết lịch sử hấp dẫn và trung thực lạ lùng”.

Âm mưu, quyền lực, tranh đấu, thủ đoạn,... tất cả đều hiện diện ở chốn cung đình. Nhưng trong Từ Dụ thái hậu, nhà văn Trần Thùy Mai cũng khẳng định sức mạnh lớn lao của tình yêu, tình bạn, tri kỉ và sự lương thiện. Từ Dụ đã vượt qua mọi cám dỗ quyền lực để trở thành bông hoa thánh khiết thực sự và hiếm hoi của chốn hậu cung.

Sự thực lịch sử và hư cấu lịch sử

Nhà văn Trần Thùy Mai đã viết tác phẩm này dựa vào ba yếu tố tư liệu: chính sử, dã sử và dân gian. Bản thân nhà văn từng nói về những khó khăn khi tư liệu lịch sử ghi lại quá ít ỏi và đứt quãng. Tuy nhiên, đây cũng chính là cơ hội để nhà văn bung trổ trí tưởng tượng và tài hư cấu của mình. Vì vậy mà Từ Dụ thái hậu đã trở thành áng văn chương đầy sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử.

Nhà văn Trần Thùy Mai

Thật vậy, một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử mà chỉ dựa vào lịch sử thì đó là một nhà văn thất bại. Những cảm hứng lịch sử hay ám ảnh lịch sử sẽ thôi thúc nhà văn cầm bút viết về điều đó bằng tài năng của mình. Trần Thùy Mai đã cho thấy niềm đam mê với lịch sử, đặc biệt là lịch sử triều Nguyễn, kinh đô xứ Huế, nơi quê hương chị; và những ám gợi lịch sử ấy sâu sắc đến độ Trần Thùy Mai đã viết để soi vào/hướng vào nội tâm của những nhân vật lịch sử, chị muốn thấu hiểu những nhân vật của lịch sử.

Chọn con đường chênh vênh, một bên là núi cao của sự thực lịch sử, một bên là vực thẳm của hư cấu, nhưng Trần Thùy Mai đã khéo léo, tinh tế đi bằng trí tưởng tượng của mình. Lịch sử có nhiều mất mát và còn nhiều tồn tại, nhà văn bằng sự nhiệt tâm với quá khứ và vượt qua những ngáng trở của hiện tại để khẳng định vai trò của văn chương với lịch sử. Hư cấu dựa trên lịch sử luôn là cách để nhiều nhà văn lựa chọn viết tiểu thuyết lịch sử. Nhưng sự thành công của hư cấu thì phụ thuộc vào cảm quan của nhà văn khi “phán đoán” về lịch sử. Trần Thùy Mai đã trung thành với những điều lớn lao như nhân vật, sự kiện, tính cách. Nhưng chính sự tương tác giữa những tính cách nhân vật qua các sự kiện đã tạo nên những tình tiết hư cấu hấp dẫn cho tiểu thuyết lịch sử này. Là tiểu thuyết lịch sử hư cấu nhưng Trần Thùy Mai đã khắc họa được cái hồn của triều đại nhà Nguyễn. Đó là sự thành công của chị. Ở một khía cạnh khác, có thể nói, lịch sử là phương tiện để chị sáng tạo và gửi gắm những thông điệp của riêng mình. Lịch sử đã được viết lại bằng tư tưởng của nhà văn.

Không thể không nhắc đến ngôn ngữ của cuốn tiểu thuyết này. Nhà văn Trần Thùy Mai đã ý thức viết tiểu thuyết lịch sử của người Việt bằng những ngôn ngữ, văn phong thuần Việt. Với mong muốn, tiểu thuyết lịch sử sẽ làm cho giới trẻ yêu thích lịch sử hơn, Trần Thùy Mai đồng thời mang đến một bài học về ngôn ngữ tiếng Việt qua tác phẩm này. Hơn 900 trang sách đều là những trang cô đọng, nén, gợi. Ở đó không có sự dàn trải của sự kể, tả thông thường. Nhà văn tiết giảm tối đa những chi tiết, từ ngữ không cần thiết để mọi thứ được đề cập đến đều có một vai trò, chỗ đứng thực sự trong tác phẩm.

“Ở chỗ nào nhà sử học run tay, thì ở chỗ đó nhà văn sẽ viết”. Ý của nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương khi nói về Từ Dụ thái hậu là nhằm đề cao tiếng nói quyền lực của văn chương, trong việc nhìn về/lại lịch sử.

Theo Hoài Phương - VNQĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên  toàn quốc.

  • Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…

  • 1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

  • Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.

  • Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.

  • Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.

  • Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).

  • Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.

  • Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.

  • Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.

  • Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.

  • Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".

  • Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.

  • hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?

  • Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.

  • Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.

  • Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.

  • Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

  • Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.